Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Mỹ

0
Top 10 Bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Mỹ



Nguyễn Mỹ sinh ngày 21 tháng 2 năm 1935, tại thôn Trung Lương, xã An Nghiệp; huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nguyễn Mỹ gia nhập quân đội từ khi mới 16 tuổi, chiến đấu tại chiến trường Nam Trung bộ. Năm 1954 tập kết ra Bắc, làm nhạc công trong đoàn văn công Tây Nguyên, đi học trường báo chí rồi về làm biên tập sách ở Nhà Xuất bản Phổ Thông. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.Nguyễn Mỹ có bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ nổi tiếng trước khi trở lại chiến trường miền Nam chiến đấu. Về Nam năm 1968, ông là phóng viên mặt trận báo Cờ Giải phóng Trung Trung bộ hoạt động ở Ban Tuyên truyền Văn nghệ khu V và hy sinh ngày 16 tháng 5 năm 1971 trên bờ sông Đakta, huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam. Baithohay.com xin giới thiệu những của ông.




Bài thơ: Cuộc chia ly màu đỏ

Cuộc chia ly màu đỏ



Ðó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ

Tươi như cánh nhạn lai hồng

Trưa một ngày sắp ngả sang đông

Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ

Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ

Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa

Chồng của cô sắp sửa đi xa

Cùng đi với nhiều đồng chí nữa

Chiếc áo đỏ rực như than lửa

Cháy không nguôi trước cảnh chia ly

Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia

Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy.

Không che được nước mắt cô đã chảy

Những giọt lonh lanh nóng bỏng sáng ngời

Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi

Và rạng đông đang bừng trên nét mặt

– Một rạng đông với màu hồng ngọc

Cây si xanh gọi họ đến ngồi

Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai

Ngày mai sẽ là ngày sum họp

Ðã toả sáng những cao đẹp!

Nắng vẫn còn ngời trên những lá cây si

Và người chồng ấy đã ra đi…

Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế

Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ

Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào

“Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau…”

Tôi biết cái màu đỏ ấy

Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy

Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi

Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người

Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp

Một làng xa giữa đêm gió rét…

Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi

Như không hề có cuộc chia ly…

(9-1964)




Bài thơ: Hoa khế nở

Hoa khế nở

Bỗng góc vườn xưa ửng tím

Trên cành khế lại đơm hoa

Mái xám mùa thu thêm đậm

Cây khế mỗi năm một già
Bạn cũ mươi đàn ong mật

Chuyện xưa say kể rì rầm

Tí tách nỗi buồn thức giấc, mênh mông

Bồi hồi, bồi hồi hoa rụng

Ngày ấy lâu rồi lâu lắm

Lui cui mấy đứa em thơ

Moi đất, nhặt hoa, bẻ táo cất nhà

Loong coong, mẻ sành, khu bát

Từ buổi mẹ thôi không hát

“Chợ chiều nhiều khế, ế chanh”

Tóc mẹ mỗi ngày một bạc

Sợi già. sợi nhớ thương anh

ập xuống mái nghèo

Nhà dột, nợ đòi tới tấp

Thêm lũ côn đồ nay đe, mai dập

Xao xác vườn xưa lá rụng tơi bời

Đêm lặng, nằm nghe bâng khuâng tiếng khế rơi

Nồng sương lạnh, mùi úng chua xa xót

– Đời có đủ hương thơm ngào ngạt

Sao nhà ta chỉ đùm muối ớt

Thân mẹ, em như lát khế quệt vào!

Nó như con ong rung đôi cánh cần lao

Theo bầy lớn, đưa mật hoa về tổ

Thằng lớn đi rồi, tới phiên thằng nhỏ

Thay anh lặn lội, đơm đó, thuyền câu

Con Út chiều qua, rổ khế đội đầu

Ra chợ, với vài xếp lá

Những khi gió mưa tầm tã

Lửa hồng nhen nhúm đêm đêm

Câu chuyện ngày xưa meh lại kể cho em

Trên cây khế con đại bàng sà cánh

Chờ em đến, đất vàng rơi óng ánh…

Em cười, rạng rỡ niềm vui
Biền biệt anh đi đã mấy năm trời

Có phải tìm vàng cho em, cho mẹ?

Năm tháng thương đau cuộn tròn gốc khế

Niềm tin vẫn vút bay đi

Mái rạ đêm đêm tiếng mẹ thầm thì

Lấp lánh đôi dòng ánh sáng

– Anh con đi, theo Bác Hồ, theo Đảng

Ngày kia thống nhất anh về

Rồi cả làng ta cũng sẽ no nê

Như đồng bào mình ngoài nớ
Gió bấc chừng mang hơi thở

Bỗng quên hết cả lạnh lùng

Có người lính miền Nam trên đất Bắc

Bỗng nỗi buồn thức giấc, mênh mông

Xam xám trời thu ửng tím một vùng

Hoa khế nở

reo vang

lời gợi nhớ
9-1958
Nguồn: Thơ Nguyễn Mỹ, Hội Văn nghệ Hà Nội, 1993

Xem thêm:  Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 5




Bài thơ: Chị tôi

Chị tôi

Tặng chị Kim Sâm
Ngày anh lên đường công tác vắng

Cháu thứ ba chị còn mang trong bụng…
Tôi trở lại lần này

Hai cháu lớn bắt lấy tôi

Cháu bé cũng sà vào theo tu mồm gọi: – Chú!

Anh bên chị trong tấm hình

Nhìn xuống chúng tôi

Tôi mở hết cỡ tay ra cũng không ôm hết cháu
Chị tôi bước vào

Đứng nhìn tôi trong khung cửa

Chị đi làm về, tay xách túi ni lông

Chị sẽ kêu lên, sau một hồi đứng lặng

Chị cười rất vui mà nước mắt lưng tròng
Lũ trẻ bỏ tôi, chạy ào về phía chị

Ôi chúng nó như một bầy chim sẻ

Trông chị như cây bưởi được mùa

Mỗi bước đi cành trĩu quả đung đưa…
Chị cho tôi xem những bức thư anh gửi

Những lá thư có đóng dấu vuông

Chị cười bảo: chị vừa trong khu bốn

Tấm vải ngụy trang còn mắc trên tường
Rồi mở tủ lấy ra chiếc hộp

Cho tôi xem tấm bằng đại học

Ngày anh đi chị đang còn bổ túc

Tôi nhớ xưa anh cũng vừa học, vừa làm
Cả anh chị đều là dược sĩ

Anh còn kiêm nghề lục vấn tù binh

Chị bảo chữ La tinh khó nhớ

Và nhắc lại ngày anh treo bảng học tiếng Anh
Tôi nhìn chị lòng đầy kính phục

Nghĩ đến bốn năm đã đi qua trong căn nhà này

Ba cháu lớn khôn và tấm bằng đại học
Cả niềm vui chị gửi tới cho anh

Không nói hết bao nhiêu hoa đã rụng

Tôi chỉ đếm được trên cây những quả chín trên cành…
Nguồn: Cuộc chia ly màu đỏ (thơ in chung), NXB Hà Nội, 1979




Bài thơ: Hơi ấm đường rừng

Hơi ấm đường rừng



Bao nhiêu lá rừng trút xuống lối em qua

đã tan ra thành đất bùn dấu dưới bàn chân vô số

Và những dấu chân voi chân hổ

Em bỏ lại đằng sau

Bao ngày nắng đêm mưa bề bộn những lo âu

Lòng anh trải theo những con đường sâu hút

Trên đá nhọn, nơi bàn chân em bước

Con đường sống lại mỗi ngày nối những bàn chân

gùi cõng

hành quân

Tuôn vào chiến dịch bốn mùa xuân, hạ, thu, đông

Con đường mới quen đã lạ

Anh đi với mình rộn rã

Và hơi ấm bàn chân em làm giao liên

Con đường dài xuyên mưa xuyên nắng

Con đường dài xuyên ngày xuyên đêm

Nhiều dốc lên chênh vênh

Nhiều dốc xuống chơi vơi

Và những bãi bom

vàng hoe khét lẹt

Những khúc ngoặt thoáng tanh mùi biệt kích

Đêm bặt tiếng thở của rừng sâu

Một kiếp cây đã hết tuổi xanh rồi

Ngã xuống

Và thảng hoặc những tiếng gầm ghê rợn

Tất cả bỗng trở nên thân mật, lành hiền

Anh nghe ấm hơi cười trong sắc lục

Anh đuổi theo những vần thơ đang hát về em

Anh đã gặp dọc đường

Thật nhiều cô gái trẻ

Nhiều cô hồng hào khoẻ mạnh

Nhiều cô xanh mét yếu gầy

Có cô cõng hàng nặng trĩu trên vai

Có cô mắc võng nằm lại bên đường chờ lui cơn sốt

Tất cả đều vui vẻ nhắc tên em

Không một thoáng lo âu, sợ sệt

Họ như đang ở nhà

Họ lặng im hay họ hát ca

và mỗi dáng mỗi hình đều nhắc

Đến riêng phần hình dáng của riêng em

Đến riêng phần sức lực của riêng em

Đến một phần cuộc sống của riêng em

Đến một phần mơ ước của riêng em

Lòng cảm phục khiến anh trào nước mắt!

Em nhỏ xíu như cây nứa tép

như một chấm nắng thu

Em, nhìn đằng sau chỉ thấy chiếc ba lô

Một nhành lá cũng làm em chậm bước

Một tảng đá còn khó khăn hơn

Đặt chân vào đâu, vào đâu cho khỏi ngã

Từ trên yên

Giữa đường áo tím bay

Mà nay rẽ lối mây

Bàn chân nhỏ giẫm lên bao đầu núi

Xông vào nơi lửa khói để làm cây chông nhỏ giệt thù

Em đã vượt qua bao thử thách bước đầu

Đi làm người chiến thắng

Bao lo âu đã hoá niềm kiêu hãnh

Anh nhẹ nhàng sao như cánh chim bay

Qua khe qua dốc

Có phải em đã nhặt

Trong những bước đi đầy ý chí của mình

Cái âm u lạnh lẽo của rừng

Bao trên con đường ra trận

Rừng hôm nay như vườn đầy quả chín

Anh chỉ còn nghe rộn rã tiếng chim reo.

Xem thêm:  Bài thơ Cánh hoa rơi – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

5.1968

Bài thơ này được tác giả viết cho người yêu khi cô gái phải tới xa hơn về phía Tây và biết rằng khó có cơ hội gặp lại.




Bài thơ: Mùa đánh Mỹ

Mùa đánh Mỹ



Những đường cày đi trong đêm tối

Những đường cày đi dưới trăng xanh

Những đường cày đi giữa nắng hanh

Đi với khẩu súng trường bình dị

Người cày ruộng bắn tàu bay Mỹ

Như diệt giống chim đến phá mùa màng

Những cậu sáo đen, những nàng cò áo trắng

Theo đường cày mổ bắt giun sâu

Chúng núp cả vào chân người cày ruộng

Khi lũ quạ sắt kia đến bắn phá trên đầu

Hố bom lấp, hồ thành ao chống hạn

Mảnh rốc két rơi cặp thép lưỡi cày

Những đường cày đi trong mưa đạn

Cày trốc lên bao mảnh máy bay

Bao đồng lúa của miền Nam nhiễm độc

Đang kêu gọi trong từng tấc đất nâu

Mùa đến tô màu xanh bên tuyến lửa

Mức chỉ tiêu năm tấn thức trong đầu

Và hạt giống các anh ngâm ủ

Hạt nảy mầm trong buổi tiễn đưa

Hạt hy vọng trong tay người vợ trẻ

Mở lá vui mong ngóng, đợi chờ

Hào giao thông nối dài mương thuỷ lợi

Trồng thêm cây cho xe pháo nguỵ trang

Xe phốt phát đạn thù xăm lỗ chỗ

Máy bơm về vệt máu còn loang!

Ngày chăm bón, đêm đắp đường, kéo pháo

Lúa hy sinh cho đường mới băng qua

Công sự mọc, bờ vùng dăng chiến luỹ

Ngớt tiếng súng rền là tiếng hót sơn ca

Và mùa màng đã dâng lên, đầy ắp

Như nước thuỷ triều, mùa màng cứ dâng lên

Mặc lửa đỏ tự trời cao vứt xuống

Bao xác máy bay bị biển lúa nhận chìm!

Người săn máy bay rình trong ruộng lúa

Lúa ôm quanh công sự bọc dày thêm

Mùa đánh Mỹ lúa cao theo nòng pháo

Gié hạt nhiều hơn băng đạn tiểu liên

Mùa đã chín, dồn vang tin chiến thắng

Người ra đi thay sắc áo nguỵ trang

Nghe thôi thúc trong từng cơn gió nhẹ

Tấp nập mây trời chở nắng xuống phương Nam

Mây cũng chín trên trời xanh vàng óng

Đoàn xe ra tiền tuyến ngát hương đêm

Đêm giã cốm nhớ người ngoài chiến địa

Bao o dân quân tay súng tay liềm

Cố xã viên vuốt chòm râu bạc

Đón lúa về ăm ắp sân phơi

Nói: Trời cũng ủng hộ ta đánh Mỹ

Từ vụ trước đến vụ này đã bảy trăm thằng rơi

Hậu phương lớn một màu vàng óng ả

Miền Nam ơi, miền Bắc lại được mùa

Ta nhập kho cả những tin thắng trận

Của hai miền, Mỹ nhất định thua!…

Nguồn: Cuộc chia ly màu đỏ (thơ in chung), NXB Hà Nội, 1979




Bài thơ: Con đường ấy

Con đường ấy



Con đường nhỏ

Đi giữa hai hàng cây

Cái con đường ấy mình đầy bóng râm

Con huơu sao đã ruỗi nằm

Để nghe những tiếng thì thầm ở trên

Đôi bên là nắng

Thu đã đượm vàng

Nắng bay từng giọt – nắng ngân vang

Ở trong nắng có một ngàn cái chuông

Họ không sưởi nắng

Họ đến ngồi đây

Họ ngồi cách một gang tay

Để nghe những tiếng lá cây thì thầm

Sẽ đến mùa đông

Lá cây sẽ rụng

Xuống chỗ họ ngồi

Bên nhau đằm thắm

Nào có hề chi

Con hươu sao ấy sẽ đi

Cũng vì tiếng họ thầm thì hát ca…

Nguồn: Cuộc chia ly màu đỏ (thơ in chung), NXB Hà Nội, 1979




Bài thơ: Trên cánh đồng đảm đang

Trên cánh đồng đảm đang



Tiếng máy bơm hút nước

Giục đồng lúa chín mau

Nắng chiều nay ở lại

Trên cánh đồng vàng thau

Sương hoa cà chiều thu

Bức màn đầy tiếng động

cưỡi ngựa trắng

Một mình vội đi xa

Tiếng nhạc ngựa reo say

Hạnh phúc bừng sắc lửa

Lúa chín như tằm ngủ

Mùa gặt rồi, anh ơi

Em tưởng mình đã vượt

Cả một chặng đường dài

Như cùng anh ra đi

Từ cuối vụ chiêm trước

Vạch đường cay thứ nhất

Trên cánh đồng đảm đang

Con trâu không chịu bước

Đấy ẩy lưỡi cày lên

Nhớ ngày nào chê anh

Đường cày cũng khôn lỏi…

Cánh đồng như nới rộng

Đố anh biết vì sao?

Người cày đi đánh giặc

Ruộng có chân thì theo…

Xem thêm:  Top 11 Bài thơ hay nhất của nhà thơ Quang Dũng

Nguồn: Cuộc chia ly màu đỏ (thơ in chung), NXB Hà Nội, 1979




Bài thơ: Đường Hồ Gươm với chiếc xe lăn

Đường Hồ Gươm với chiếc xe lăn



Lửa đã thắp trên những cành

Xe lăn đi làm thức tiếng ve ran

Tiếng chổi quét. Tiếng mưa vui hạt sỏi

Gieo xuống lòng đường như chuông nhỏ ngân vang

Hầm trú ẩn quanh hồ bao lớp cỏ đã chen xanh

Bom bọn cướp siêu âm vừa cắt xuống ngoại thành

Và những con thiêu thân đã cháy

Xác rơi tan ngoài cửa ngõ Thăng Long!

Thêm bao lượt những chàng trai, cô gái

Giã phố vui, đất nước gọi lên đường

Họ lấy Hồ Gươm làm nơi lượn chào hò hẹn

Làm đường băng của tuổi thanh xuân

Em lái xe lăn trên đường Hồ Gươm

Đường xuất phát đến những chân trời lớn

Tuổi khăn quàng cũng náo nức muốn hành quân

Súng quyết tử giữ trời trên sân thượng

Vun vút từng đôi én “Mích” lượn vòng

Em trên xe lăn như trên voi thép

Súng tựa thành xe, đạn thắt ngang lưng

Áo em mặc xanh theo màu cỏ úa

Mắt Hồ Gươm chiếu sáng không trung

Em có thấy những ngoái nhìn thân thiết?

Người ra đi nghe ấm lửa sau lưng!

Tháp Rùa nhìn em, ơi cô gái đảm

Trên chiếc xe lăn to lớn nặng nề

Đây con đường em vẫn giong xe đạp

Qua những niềm vui trong sáng hội hè!

Ta nghe em, tiếng sịch sình chắc nặng

Giữa hôm nào đạn réo, bom rơi

Tưởng như nghe nhịp trái tim đất nước

Tiếng sần sùi sắt thép sinh sôi

Ta nghe em mang cả lòng phố cũ

Với hàng sấu cánh lá vươn che

Nghe sâu xa trong mùi nồng hắc ín

Nắng lửa đang nung trái mật mùa hè

Hãy lên xuống đất này em ơi, tấm lòng ta yêu mến

Với sỏi đá hôm nay chất chứa tâm hồn

Cho thêm chắc con đường khi cần thiết cất mình lên trong lửa đạn

Bên bóng Tháp Rùa nghiêm nghị dáng kẻ đứng trao gươm

Hà Nội rộn ràng chuyển quanh trục Tháp

Với tiếng xe em cần mẫn tới lui

Đường đẹp Hồ Gươm thơm mùi lửa mới

Nối với bốn bề giặc Mỹ tan, rơi

Nối với bốn bề máu căng mạch đập

Đường chiến công như chuỗi hạt trai vui

Sáng rực Hồ Gươm tấm gương lịch sử

Xe lăn đi quanh trục Tháp của loài người

6-1966

Nguồn: Cuộc chia ly màu đỏ (thơ in chung), NXB Hà Nội, 1979




Bài thơ: Tuy An

Tuy An

Núi Ông lom khom, núi Bà đội nón

Hòn Chiêng hòn Trống chiều sớm ngân nga

Ôi Tuy An, núi với người chen chúc

Nhộn nhịp sắc màu mảnh đất vang ca…
Những thung vui sớm chiều nghe biển gọi

Núi khép vòng tay không muốn người đi

Người cưỡi núi thúc chồm ra tận biển

Hòn Yến đỏ ngời giữa sóng xanh say
Những làng xóm quây quần trong thung biếc

Sắn, mía, đậu, gai trèo ruộng bậc thang

Làng trên núi, giếng Tiên trên núi

Tiếng hát lô vần vụ những chim đàn
Đất Hoà Đa đen mà sinh bông trắng

Rừng cà phê chín đỏ đất An Xuân

Xoài Đá trắng, hồ tiêu Trà Úc

Cá mắm Tiên Châu, nếp Tượng đồng trong
Đất vui quá đến sông còn bịn rịn

Sắp tới biển ròi còn mở tay ôm…
Biển vào Ô Loan nằm ngủ thiếp

Sò huyết sinh trong đáy chiếc mơ xanh

Hãy nhớ về đầm Ô Loan bạn nhé!

Trời, đất tinh trong cho bạn thấy trái tim mình…
Nguồn: Cuộc chia ly màu đỏ (thơ in chung), NXB Hà Nội, 1979




Bài thơ: Gửi một dòng sông

Gửi một dòng sông



Tôi yêu vì một dòng sông

Nước trong chảy mát như lòng tôi vui

Lụa căng hoa vẽ từng đôi

Gió xoa ngực cát trăng soi tỏ mờ

Con thoi dệt mãi đường tơ

Xe săn chỉ thắm, đôi bờ tre nghiêng

Mái chèo đưa khúc giao duyên

Êm êm sóng vỗ hồn thuyền mênh mông

Đập dừng, cán nước thành bông

Âm vang tiếng hát trầm hùng ra khơi

Bến trong in những nụ cười

Và in mắt biếc một người tôi yêu

10-1958




Nguyễn Mỹ viết văn từ kháng chiến chống Pháp. Anh đã in tập ký Trận Quán Cau (1954); Cuộc chia ly màu đỏ (thơ in chung), 1980; Thơ Nguyễn Mỹ (32 bài, có 17 bài di cảo, 1993).


Theo Baithohay.com