Tập Thơ Chữ Hán vang danh của nhà thơ Hồ Chí Minh phần 4

0
Tập Thơ Chữ Hán vang danh của nhà thơ Hồ Chí Minh phần 4

Những Trang thơ chữ hán của nhà thơ Hồ Chí Minh gắn bó với nhiều thế hệ bạn đọc yêu thơ Việt Nam. Với một phong cách thơ độc đáo và ấn tượng, những thi phẩm này để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc. Đến nay, những trang thơ này vẫn được yêu thích và săn đón mạnh mẽ. Cùng nhau theo dõi nhé!

Vô đề (I) 無題

身体在獄中,

精神在獄外。

欲成大事業,

精神更要大。

Vô đề (I)

Thân thể tại ngục trung,

Tinh thần tại ngục ngoại.

Dục thành đại sự nghiệp,

Tinh thần cánh yếu đại.

Dịch nghĩa

Thân thể ở trong ngục,

Tinh thần ở ngoài ngục;

Muốn nên sự nghiệp lớn,

Tinh thần càng phải cao.

Khai quyển 開卷

老夫原不愛吟詩,

因為囚中無所為。

聊借吟詩消永日,

且吟且待自由時。

Khai quyển

Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,

Nhân vị tù trung vô sở vi.

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,

Thả ngâm thả đãi tự do thì.

Dịch nghĩa

Già này vốn không thích ngâm thơ,

Nhân vì trong ngục không có gì làm.

Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,

Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.

Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu

足榮卻使余蒙辱,

故意遲延我去程。

間諜嫌疑空捏造,

把人名譽白犧牲。

Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu

Túc Vinh khước sử dư mông nhục,

Cố ý trì diên ngã khứ trình.

Gián điệp hiềm nghi không niết tạo,

Bả nhân danh dự bạch hy sinh.

Dịch nghĩa

Phố tên Túc Vinh mà khiến ta mang nhục,

Cố ý làm chậm trễ hành trình của ta.

Bày đặt ra trò tình nghi gián điệp,

Không dưng làm mất danh dự của người.

Nhập Tĩnh Tây huyện ngục 入靖西縣獄

獄中舊犯迎新犯,

天上晴雲逐雨雲。

晴雨浮雲飛去了,

獄中留住自由人。

Nhập Tĩnh Tây huyện ngục

Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm

Thiên thượng tình vân trục vũ vân

Tình vũ phù vân phi khứ liễu

Ngục trung lưu trú tự do nhân

Dịch nghĩa

Trong ngục tù cũ đón tù mới,

Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa.

Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết,

Chỉ còn lại người tự do trong ngục.

Thế lộ nan 世路難

走遍高山與峻岩,

那知平路更難堪。

高山遇虎終無恙,

平路逢人卻被監。

余原代表越南民,

擬到中華見要人。

無奈風波平地起,

送余入獄作嘉賓。

忠誠我本無心疚,

卻被嫌疑做漢奸。

處世原來非易易,

而今處世更難難。

Thế lộ nan

Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham,

Na tri bình lộ cánh nan kham.

Cao sơn lộ hổ chung vô dạng,

Bình lộ phùng nhân khước bị giam.

Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân,

Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân.

Vô nại phong ba bình địa khởi,

Tống dư nhập ngụ tác gia tân.

Trung thành ngã bản vô tâm cứu,

Khước bị hiềm nghi tố Hán gian.

Xử thế nguyên lai phi dị dị,

Nhi kim xử thế cánh nan nan.

Dịch nghĩa

Đi khắp non cao và núi hiểm,

Nào ngờ đường phẳng lại khó qua;

Núi cao gặp hổ rút cục vẫn không việc gì,

Đường phẳng gặp người lại bị bắt!

Ta vốn là đại biểu của dân Việt Nam,

Định đến Trung Hoa gặp nhân vật trọng yếu;

Không dưng đất bằng nổi sóng gió,

Đưa ta vào làm “khách quý” trong tù.

Vốn trung thực thành thật, ta không có điều gì thẹn với lòng,

Thế mà bị tình nghi là Hán gian;

Việc xử thế vốn không phải là dễ,

Lúc này, xử thế càng khó khăn hơn.

Xem thêm:  Hàn Mặc Tử- Tuyển tập thơ hay nhất của “Nhà Thơ Điên”

Tảo 早

太陽每早從牆上,

照著龍門門未開。

籠裡現時還黑暗,

光明卻已面前來。

早起人人爭獵虱,

八鐘響了早餐開。

勸君且吃一個飽,

否極之時必泰來。

Tảo

Thái dương mỗi tảo tòng tường thướng,

Chiếu trước lung môn môn vị khai.

Lung lý hiện thời hoàn hắc ám,

Quang minh khước dĩ diện tiền lai.

Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt,

Bát chung hưởng liễu tảo xan khai.

Khuyến quân thả ngật nhất cá bão,

Bĩ cực chi thì tất thái lai.

Dịch nghĩa

Mỗi sớm, mặt trời vượt lên khỏi đầu tường,

Chiếu tới cửa nhà lao, cửa chưa mở;

Giờ đây trong lao còn đen tối,

Nhưng ánh sáng đã bừng lên phía trước mặt.

Sớm dậy, mọi người đua nhau bắt rận,

Chuông điểm tám giờ, bữa cơm sáng bắt đầu;

Khuyên anh hãy cứ ăn no,

Khổ đến tột cùng, vui ắt tới.

Ngọ 午

獄中午睡真舒服,

一睡昏昏幾句鐘。

夢見乘龍天上去,

醒時才覺臥籠中。

Ngọ

Ngục trung ngọ thuỵ chân như phục,

Nhất thuỵ hôn hôn kỷ cú chung.

Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ,

Tỉnh thời tài giác ngoạ lung trung.

Dịch nghĩa

Trong nhà lao, giấc ngủ trưa thật khoan khoái,

Một giấc say sưa suốt mấy tiếng liền;

Mơ thấy cưỡi rồng bay lên trời,

Khi tỉnh dậy mới biết mình vẫn nằm trong ngục.

Vấn thoại 問話 • Lời hỏi

社會的兩極,

法官與犯人。

官曰你有罪,

犯曰我良民。

官曰你說假,

犯曰我言真。

法官性本善,

假裝惡狺狺。

要入人於罪,

卻假意慇懃。

這兩極之奸,

立著公理神。

Vấn thoại

Xã hội đích lưỡng cực,

Pháp quan dữ phạm nhân.

Quan viết: nhĩ hữu tội,

Phạm viết: ngã lương dân.

Quan viết: nhĩ thuyết giả,

Phạm viết: ngã ngôn chân.

Pháp quan tính bản thiện,

Giả trang ác ngân ngân.

Yếu nhập nhân ư tội,

Khước giả ý ân cần.

Giá lưỡng cực chi gian,

Lập trước công lý thần.

Dịch nghĩa

Hai cực của xã hội,

Quan toà và phạm nhân;

Quan bảo: anh có tội,

Phạm nhân thưa: tôi dân lành;

Quan bảo: anh nói dối,

Phạm nhân thưa: tôi nói thật;

Quan toà tính vốn thiện,

Lại hầm hầm giả làm bộ ác;

Muốn khép người vào tội,

Lại ra vẻ ân cần;

Giữa hai cực này,

Có thần công lý đứng.

Ngọ hậu 午後

二點開籠換空氣,

人人仰看自由天。

自由天上神仙客,

知否籠中也有仙。

Ngọ hậu

Nhị điểm khai lung hoán không khí

Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên

Tự do thiên thượng thần tiên khách

Tri phủ lung trung dã hữu tiên.

Dịch nghĩa

Hai giờ chiều, nhà lao mở cửa đổi không khí,

Mọi người ngẩng lên ngắm trời tự do;

Khách thần tiên trên trời tự do,

Biết chăng trong tù cũng có tiên?

Vãn 晚

晚餐吃了日西沉,

處處山歌與樂音。

幽暗靖西禁閉室,

忽成美術小翰林。

Vãn

Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm,

Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm.

U ám Tĩnh Tây cấm bế thất,

Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.

Dịch nghĩa

Cơm chiều xong, mặt trời lặn về tây,

Khắp nơi, rộn tiếng ca dân dã và tiếng nhạc;

Nhà ngục u ám huyện Tĩnh Tây,

Bỗng thành một viện hàn lâm nghệ thuật nhỏ.

Tù lương 囚糧

每餐一碗紅米飯,

無鹽無菜又無湯。

有人送飯吃得飽,

沒人送飯喊爺娘。

Tù lương

Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn,

Vô diêm vô thái hựu vô thang.

Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão,

Một nhân tống phạn hám gia nương.

Dịch nghĩa

Mỗi bữa một bát cơm gạo đỏ,

Không muối, không rau cũng chẳng canh;

Có người đem cơm, được ăn no,

Không người đem cơm, đói kêu cha kêu mẹ.

Xem thêm:  Chùm thơ hay về nắng hay nhất

Nạn hữu xuy địch 難友吹笛

獄中忽聽思鄉曲,

聲轉淒涼調轉愁。

千里關河無限感,

閨人更上一層樓。

Nạn hữu xuy địch

Ngục trung hốt thính tư hương khúc,

Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu.

Thiên lý quan hà vô hạn cảm,

Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.

Dịch nghĩa

Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương,

Âm thanh trở nên thê lương, tình điệu trở nên sầu muộn.

Nước non xa cách nghìn trùng, cảm thương vô hạn,

Người chốn phòng khuê lại bước lên một tầng lầu.

Cước áp 腳閘

猙獰餓口似兇神,

晚晚張開把腳吞。

各人被吞了右腳,

只剩左腳能屈伸。

世間更有離奇事,

人憫爭先上腳鉗。

因為有鉗才得睡,

無鉗沒處可安眠。

Cước áp

Tranh ninh ngạ khẩu tự hung thần,

Vãn vãn trương khai bả cước thôn.

Các nhân bị thôn liễu hữu cước,

Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.

Thế gian cánh hưu ly kỳ sự,

Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm.

Nhân vị hữu kiềm tài đắc thuỵ,

Vô kiềm một xứ khả an miên.

Dịch nghĩa

Miệng đói dữ tợn như một hung thần,

Đêm đêm há hốc nuốt chân người;

Người nào cũng bị nuốt chân phải,

Chỉ còn chân trái co duỗi được thôi.

Trên đời lại có chuyện thật là kỳ,

Mọi người tranh nhau đến trước để cùm chân;

Vì có cùm chân mới được ngủ,

Không cùm chân thì không chỗ ngủ yên.

Học dịch kỳ 學奕棋

閑坐無聊學奕棋,

千兵萬馬共驅馳。

進攻退守應神速,

高才疾足先得之。

眼光應大心應細,

堅決時時要進攻。

錯路雙車也沒用,

逢時一卒可成功。

雙方勢力本平均,

勝利終須屬一人。

攻守運籌無漏著,

才稱英勇大將軍。

Học dịch kỳ

Nhàn toạ vô liêu học dịch kỳ,

Thiên binh vạn mã cộng khu trì;

Tấn công thoái thủ ưng thần tốc,

Cao tài tật túc tiên đắc chi.

Nhãn quang ưng đại tâm ưng tế,

Kiên quyết thời thời yếu tấn công.

Thác lộ song xa dã một dụng,

Phùng thời nhất tốt khả thành công?

Song phương thế lực bản bình quân,

Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;

Công thủ vận trù vô lậu trước,

Tài xưng anh dũng đại tướng quân.

Dịch nghĩa

Ngồi trong giam cấm buồn tênh, học đánh cờ,

Nghìn quân muôn ngựa cùng rong ruổi;

Tấn công, lui giữ đều phải thần tốc,

Tài cao, chân nhanh mới được nước trước.

Tầm nhìn phải rộng, suy nghĩ phải sâu,

Phải kiên quyết, luôn luôn tấn công;

Lạc nước, hai xe cũng thành vô dụng,

Gặp thời, một tốt có thể thành công.

Thế lực hai bên vốn ngang nhau,

Kết cục thắng lợi thuộc về một người;

Tính kế đánh hay giữ không sơ hở,

Mới xứng là bậc đại tướng anh dũng.

Vọng nguyệt 望月

獄中無酒亦無花,

對此良宵奈若何。

人向窗前看明月,

月從窗隙看詩家。

Vọng nguyệt

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,

Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Dịch nghĩa

Trong tù không rượu cũng không hoa,

Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?

Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,

Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.

Phân thuỷ 分水

每人分得水半盆,

洗面烹茶各隨便。

誰要洗面勿烹茶,

誰要烹茶勿洗面。

Phân thuỷ

Mỗi nhân phân đắc thuỷ bán bồn,

Tẩy diện phanh trà các tuỳ tiện.

Thuỳ yếu tẩy diện vật phanh tra,

Thuỳ yếu phanh tra vật tẩy diện.

Dịch nghĩa

Mỗi người được chia nửa chậu nước,

Rửa mặt hoặc đun trà, tuỳ ý mình;

Ai muốn rửa mặt, đừng đun trà,

Ai muốn đun trà, thôi rửa mặt.

Xem thêm:  Top 10 Bài thơ hay viết về người khiếm thị

Trung thu 中秋

中秋秋月圓如鏡,

照燿人間白似銀。

家裡團圓吃秋節,

不忘獄裡吃愁人。

獄中人也賞中秋,

秋月秋風帶點愁。

不得自由賞秋月,

心隨秋月共悠悠。

Trung thu

Trung thu thu nguyệt viên như kính,

Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân.

Gia lý đoàn viên ngật thu tiết,

Bất vong ngục lý ngật sầu nhân.

Ngục trung nhân dã thưởng trung thu,

Thu nguyệt thu phong đới điểm sầu.

Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt,

Tâm tuỳ thu nguyệt cộng du du!

Dịch nghĩa

Trăng trung thu tròn như gương,

Chiếu rọi cõi đời, ánh trăng trắng như bạc;

Nhà ai sum họp ăn tết trung thu,

Chẳng quên người trong ngục nuốt sầu.

Người trong ngục cũng thưởng thức trung thu,

Trăng thu, gió thu đều vương sầu;

Không được tự do ngắm trăng thu,

Lòng theo cùng trăng thu vời vợi.

Đổ 賭

民間賭博被官拉,

獄裡賭博可公開。

被拉賭犯常嗟悔,

何不先到這裡來。

Đổ

Dân gian đổ bác bị quan lạp,

Ngục lý đổ bác khả công khai.

Bị lạp đổ phạm thường ta hối,

Hà bất tiên đáo giá lý lai!

Dịch nghĩa

Ngoài dân đánh bạc thì bị quan bắt,

Trong tù đánh bạc có thể công khai;

Con bạc bị tù thường hối tiếc:

Sao không sớm vào quách chốn này!?

Đổ phạm 賭犯 • Tù đánh bạc

公家不給賭犯飯,

欲令他們悔前非。

硬犯餚饌天天有,

窮犯飢涎共淚垂。

Đổ phạm

Công gia bất cấp đổ phạm phạn,

Dục linh tha mẫn hối tiền phi.

“Ngạnh” phạm hào soạn thiên thiên hữu,

Cùng phạm cơ diên cộng lệ thuỳ.

Dịch nghĩa

Nhà nước không phát cơm cho tù cờ bạc,

Muốn cho họ hối cải lỗi trước;

Nhưng bọn tù sừng sỏ ngày nào cũng có cơm thịt,

Còn tù nghèo, đói chảy dãi cùng với nước mắt.

Nạn hữu Mạc mỗ 難友幕某

富家子弟貧家教,

賭膽如天膽似鍼。

車代炮財真偉大,

在囚仍想喫人葠。

Nạn hữu Mạc mỗ

Phú gia tử đệ, bần gia giáo,

Đổ đảm như thiên, đảm tự châm;

“Xa đại pháo tài”, chân vĩ đại,

Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.

Dịch nghĩa

Con cái nhà giàu mà nghèo giáo dục,

Gan đánh bạc to như trời mà mật thì nhỏ như cái kim;

Cái tài huênh hoang khoác lác thật là vĩ đại,

Ở tù nhưng vẫn tơ tưởng ăn nhân sâm.

Nạn hữu nguyên chủ nhiệm L 難友原主任L

國家重托鎮邊陲,

胡乃忘公只願私。

鉹礦常從邊界去,

金錢爐裡鑄囚詩。

Nạn hữu nguyên chủ nhiệm L

Quốc gia trọng thác trấn biên thuỳ,

Hồ nãi vong công chỉ nguyện tư?

Thế khoáng thường tòng biên giới khứ,

Kim tiền lô lý chú tù thi.

Dịch nghĩa

Nhà nước giao cho trọng trách coi giữ biên thuỳ,

Sao lại quên việc công, chỉ lo việc tư?

Quặng “ăngtimoan” thường tuồn qua biên giới,

Bởi thế, lò đúc tiền mới đúc ra bài thơ tù.

Tập thơ chữ hán của Hồ Chí Minh mang nhiều giá trị sâu sắc. Ông không chỉ là một nhà thơ mà còn là một vị lãnh đạo tài ba được nhân dân Việt nam kính trọng và biết ơn to lớn. Đồng hành cùng Baithohay.com để theo dõi những bài viết ấn tượng nhất nhé!

Xem Thêm: Tập Thơ Chữ Hán Vang danh của nhà thơ Hồ Chí Minh phần 3

Theo Baithohay.com