Nhà thơ Tú Mỡ cùng những tác phẩm dịch nổi tiếng phần 2

0
Nhà thơ Tú Mỡ cùng những tác phẩm dịch nổi tiếng phần 2

Đến với những trang thơ dịch của Tú Mỡ, ta càng thêm phần nào thán phục trước ngòi bút sắc bén cùng tài năng thiên phú của ông. Không những sáng tác thơ hay và đặc sắc mà ông còn có độ am hiểu ngôn ngữ hiếm có. Ông là một hình tượng để các nhà thơ trẻ noi theo. Cùng nhau theo dõi những trang thơ của Tú Mỡ ngay nhé!

Đứa trẻ và thầy đồ L’enfant et le maître d’école

L’enfant et le maitre d’ecole

Dans ce récit je prétends faire voir

D’un certain sot la remontrance vaine.

Un jeune enfant dans l’eau se laissa choir,

En badinant sur les bords de la Seine.

Le Ciel permit qu’un saule se trouva,

Dont le branchage, après Dieu, le sauva.

S’étant pris, dis-je, aux branches de ce saule,

Par cet endroit passe un Maître d’école.

L’Enfant lui crie: “Au secours! je péris.”

Le Magister, se tournant à ses cris,

D’un ton fort grave à contre-temps s’avise

De le tancer: “Ah! le petit babouin!

Voyez, dit-il, où l’a mis sa sottise!

Et puis, prenez de tels fripons le soin.

Que les parents sont malheureux qu’il faille

Toujours veiller à semblable canaille!

Qu’ils ont de maux! et que je plains leur sort!”

Ayant tout dit, il mit l’enfant à bord.

Je blâme ici plus de gens qu’on ne pense.

Tout babillard, tout censeur, tout pédant,

Se peut connaître au discours que j’avance:

Chacun des trois fait un peuple fort grand;

Le Créateur en a béni l’engeance.

En toute affaire ils ne font que songer

Aux moyens d’exercer leur langue.

Hé! mon ami, tire-moi de danger:

Tu feras après ta harangue.

Dịch

Trong chuyện này tôi xin tả đúng

Một thằng ngu lên giọng trái mùa

Một hôm có đưa trẻ thơ

Nhởn nhơ dạo bước trên bờ sông Xen

Nhỡ trượt cẳng ngã liền xuống nước

Phúc làm sao vớ được cành dương

Trước là ơn Chúa rộng thương

Sau nhờ cành liễu khỏi cơn tai nàn

Một thầy đồ lang thang tới nẻo

Đứa trẻ thơ kêu réo hết hơi

“Cứu tôi! Chết mất thầy ơi!”

Thầy đồ đạo mạo quay người đứng coi

Lên ngay giọng trái thời nghiêm nghị

Mắng trẻ thơ: “Đồ khỉ nhãi con!

Trông kìa, nó mất trí khôn!

Công đâu nuôi nấng thằng ôn vật này!

Chẳng qua bố mẹ mày vô phúc

Đẻ con hư chăm sóc toi công

Thương thay số kiếp long đong

Làm cha mẹ chẳng đau lòng lắm ru!”

Diễn thuyết xong, thầy đồ khệ nệ

Bước ra lôi đứa trẻ lên bờ

Chuyện này còn mắng vào lắm kẻ

Bọn ba hoa, hoạnh họe, sính tài

Lời tôi đã rõ nói ai

Kể ba hạng ấy ngợm người khá đông

Tạo hóa cưng chi dòng giống đó?

Thấy việc là chúng nó lôi thôi

Tìm đường múa mép khua môi

Chao ôi! ông bạn, cứu tôi đã nào!

Xong rồi sẽ nói tào lao…

Hươu soi mình dưới nước

Dans le cristal d’une fontaine

Un Cerf se mirant autrefois

Louait la beauté de son bois,

Et ne pouvait qu’avecque peine

Souffrir ses jambes de fuseaux,

Dont il voyait l’objet se perdre dans les eaux.

Quelle proportion de mes pieds à ma tête!

Disait-il en voyant leur ombre avec douleur:

Des taillis les plus hauts mon front atteint le faîte ;

Mes pieds ne me font point d’honneur.

Tout en parlant de la sorte,

Un Limier le fait partir;

Il tâche à se garantir;

Dans les forêts il s’emporte.

Son bois, dommageable ornement,

L’arrêtant à chaque moment,

Nuit à l’office que lui rendent

Ses pieds, de qui ses jours dépendent.

Il se dédit alors, et maudit les présents

Que le Ciel lui fait tous les ans.

Nous faisons cas du beau, nous méprisons l’utile;

Et le beau souvent nous détruit.

Ce Cerf blâme ses pieds qui le rendent agile;

Il estime un bois qui lui nuit.

Dịch

Trong dòng suối tựa thuỷ tinh

Hôm xưa Hươu đứng soi mình nước trong

Khen chạc đẹp; hài lòng, thích lắm

Thấy gióng chân cà khẳng lại buồn

Chân thon lấp ló dưới nguồn

Làm Hươu khó chịu, đòi cơn Hươu sầu

Than rằng: “Ngắm từ đầu đến cẳng

Khác nhau xa, coi chẳng xứng nào

Đầu thì chấm ngọn cây cao

Cẳng thì lếu đếu, bảnh bao nỗi gì!”

Hươu đang nói vân vi như thế

Thấy chó săn, ù té chạy ngay

Cố sao thoát khỏi nguy đây

Cắm đầu phóng vút như bay vào rừng

Tai hại tệ, cặp sừng trang trí

Làm cho Hươu cứ bị vướng hoài

Cái chân tác dụng cứu đời

Cái sừng lại cản, đang thời nguy cơ

Hươu tỉnh ngộ bây giờ đổi giọng

Oán món quà trời tặng hàng năm

Đẹp thường ta trọng, ích ta khinh

Cái đẹp thường khi hại đến mình

Chân giúp Hươu nhanh, Hươu lại oán

Đi mê bộ chạc phản Hươu lành

Khỉ và mèo

Bertrand avec Raton, l’un Singe et l’autre Chat,

Commensaux d’un logis, avaient un commun Maître.

D’animaux malfaisants c’était un très bon plat;

Ils n’y craignaient tous deux aucun, quel qu’il pût être.

Trouvait-on quelque chose au logis de gâté,

L’on ne s’en prenait point aux gens du voisinage.

Bertrand dérobait tout; Raton de son côté

Etait moins attentif aux souris qu’au fromage.

Un jour au coin du feu nos deux maîtres fripons

Regardaient rôtir des marrons.

Les escroquer était une très bonne affaire:

Nos galands y voyaient double profit à faire,

Leur bien premièrement, et puis le mal d’autrui.

Bertrand dit à Raton: Frère, il faut aujourd’hui

Que tu fasses un coup de maître.

Tire-moi ces marrons. Si Dieu m’avait fait naître

Propre à tirer marrons du feu,

Certes marrons verraient beau jeu.

Aussitôt fait que dit: Raton avec sa patte,

D’une manière délicate,

Ecarte un peu la cendre, et retire les doigts,

Puis les reporte à plusieurs fois;

Tire un marron, puis deux, et puis trois en escroque.

Et cependant Bertrand les croque.

Une servante vient: adieu mes gens. Raton

N’était pas content, ce dit-on.

Aussi ne le sont pas la plupart de ces Princes

Qui, flattés d’un pareil emploi,

Vont s’échauder en des Provinces

Pour le profit de quelque Roi.

Xem thêm:  Top 12 Bài thơ hay của nhà thơ Đỗ Hương

Dịch

Khẹc với Meo, một mèo một khỉ

Chủ cùng chung hú hí một nhà

Cũng phường quỉ quái tinh ma

Lưu manh một giuộc dễ mà chịu ai

Trong nhà hễ thấy tai thấy hại

Chính quân này nào phải ai quanh

Khẹc thì ăn cắp như ranh

Mèo không rình chuột, chỉ rình sữa bơ

Một hôm nọ hai xừ đại bợm

Hạt dẻ tây nhòm nướng trong lò

Xoáy ăn nhằm món bở to

Một công đôi việc giở trò tinh ranh

Trước là được thỏa tình ích kỷ

Sau nữa là toại chí hại nhân

Khẹc bảo Meo, bạn chí thân:

“Hôm nay huynh trổ ngón thần đệ coi

Hạt dẻ đó hãy cời chơi thử

Nếu trời sinh đệ đủ tài ba

Lửa hồng kều hạt dẻ ra

Phóng tay phải biết, mấy mà chẳng hay!”

Nghe dứt lời, làm ngay tức khắc

Mèo dùng chân, kỹ thuật tinh vi

Cời cời, gạt gạt gio đi

Thò vào thụt lại kể chi mấy lần

Kều một hạt, dần dần hai hạt

Ba hạt… tay giảo hoạt thạo nghề

Trong khi thằng Khẹc chầu rìa

Hạt này hạt nữa tì tì cắn ăn

Chị tớ gái bất thần xịch tới

Thôi thế là bán sới cả hai

Mèo ta bị xỏ chẳng hài

Người ta bảo thế: trò đời khác đâu!

Lắm vương tước chư hầu cũng rứa

Phận đầu sai hớn hở công lao

Nước sôi lửa bỏng lăn vào

Để ngài hoàng đế thượng trào hưởng công

Lão nông và các con

Travaillez, prenez de la peine:

C’est le fonds qui manque le moins.

Un riche laboureur, sentant sa mort prochaine,

Fit venir ses enfants, leur parla sans témoins.

” Gardez-vous, leur dit-il, de vendre l’héritage

Que nous ont laissé nos parents:

Un trésor est caché dedans.

Je ne sais pas l’endroit ; mais un peu de courage

Vous le fera trouver: vous en viendrez à bout.

Remuez votre champ dès qu’on aura fait l’août:

Creusez, fouillez, bêchez ; ne laissez nulle place

Où la main ne passe et repasse. “

Le père mort, les fils vous retournent le champ,

Deçà, delà, partout: si bien qu’au bout de l’an

Il en rapporta davantage.

D’argent, point de caché. Mais le père fut sage

De leur montrer, avant sa mort,

Que le travail est un trésor.

Dịch

Hãy lao động cần cù gắng sức,

Ấy chân lưng sung túc nhất đời.

Phú nông gần đất xa trời

Họp riêng con lại ngỏ lời thiết tha

Rằng: “Ruộng đất ông cha để lại

Các con đừng khờ dại bán đi

Kho vàng chôn dưới đất kia

Cha không biết chỗ. Kiên trì gắng công

Tìm khắc thấy, cuối cùng sẽ thắng

Xốc ruộng lên tháng tám sau mùa

Tay cày, tay cuốc, tay bừa,

Xới qua xới lại chẳng chừa chỗ không”

Bố chết. Các con cùng gắng gổ

Lật tung đồng đây đó khắp nơi.

Kỹ càng công việc xong xuôi,

Cuối năm lúa tốt bời bời bội thu.

Vàng với bạc giấu mô chẳng thấy,

Rõ ràng ông bố ấy khôn ngoan:

Trước khi từ giã trần gian,

Lấy câu “lao động là vàng” dạy con.

Con cò

Un jour, sur ses longs pieds, allait, je ne sais où,

Le héron au long bec emmanché d’un long cou:

Il côtoyait une rivière.

L’onde était transparente ainsi qu’aux plus beaux jours;

Ma commère la carpe y faisait mille tours,

Avec le brochet son compère.

Le héron en eût fait aisément son profit:

Tous approchaient du bord, l’oiseau n’avait qu’à prendre.

Mais il crut mieux faire d’attendre

Qu’il eût un peu plus d’appétit:

Il vivait de régime et mangeait à ses heures.

Après quelques moments, l’appétit vint: l’oiseau,

S’approchant du bord, vit sur l’eau

Des tanches qui sortaient du fond de ces demeures.

Le mets ne lui plut pas; il s’attendait à mieux,

Et montrait un goût dédaigneux,

Comme le rat du bon Horace.

«Moi, des tanches! dit-il; moi, héron, que je fasse

Une si pauvre chère? Et pour qui me prend-on?»

La tanche rebutée, il trouva du goujon.

«Du goujon! c’est bien là le dîner d’un héron!

J’ouvrirais pour si peu le bec! aux dieux ne plaise!»

Il l’ouvrit pour bien moins: tout alla de façon

Qu’il ne vit plus aucun poisson.

La faim le prit: il fut tout heureux et tout aise

De rencontrer un limaçon.

Ne soyons pas si difficiles:

Les plus accommodants, ce sont les plus habiles;

On hasarde de perdre en voulant trop gagner.

Gardez-vous de rien dédaigner,

Surtout quand vous avez à peu près votre compte.

Bien des gens y sont pris. Ce n’est pas aux hérons

Que je parle; écoutez, humains, un autre conte:

Vous verrez que chez vous j’ai puisé ces leçons.

Xem thêm:  Thơ Thương Nhớ, Chùm Thơ Tình Buồn Viết Nỗi Nhớ Người Thương

Dịch

Mỏ dài tra cán cổ dài

Chú Cò trên bộ chân choài khẳng khiu

Đi đâu thất thểu, lều nghều

Cò rò dạo bước một chiều chơi rong

Nó đi theo rẻo bờ sông

Dòng êm, sóng lặng, nước trong, đẹp trời

Mẹ đĩ Chép nhởn nhơ bơi

Cùng cha cu Trắm lượn chơi nghìn vòng

Sát bờ cá lội thong dong

Cò ta chỉ đớp là xong, khó gì

Nhưng Cò còn khảnh, chờ khi

Ngấu hơn tí nữa khai tì ngon ơ

Kiêng khem, ăn uống đúng giờ

Lát sau Cò đói, dạo bờ ngó trông

Cá Rô từ dưới đáy sông

Ngoi lên mặt nước lượn vòng xung xinh

Chú Cò ngủng nghỉnh làm thinh

Chờ mồi thật thích khẩu mình mới xơi

Lắc đầu chê hẩm chê hôi:

“Cò đây, đừng tưởng như ai mà rằng!

Cá Rô xứng miệng ta chăng?

Đồ tồi ấy chẳng thèm ăn tanh mồm”

Chê Rô, Cò gặp Bống còm:

“Bống ư? Đâu phải bữa tươm nhà Cò!

Trời ơi, trời có thấu cho

Thứ này há mỏ nuốt vô sao đành”

Còn là há mỏ suông tình

Cá đi mất hết, tép ranh chẳng còn

Bấy giờ đói đã nổi cơn

Cò thôi đỏng đảnh, mừng rơn sướng rền

May còn vớ được con Sên

Khó tính làm chi, việc chẳng nên

Xuề xoà dễ dãi mới ăn tiền

Tham vơ món bở thường khi hỏng

Mất cả chì chài trớn mắt lên

Chê ỏng chê eo, đừng quá quắt

Nhiều no ít đủ chẳng lo phiền

Cụ già và các con

Toute puissance est faible, à moins que d’être unie.

Ecoutez là-dessus l’esclave de Phrygie.

Si j’ajoute du mien à son invention,

C’est pour peindre nos moeurs, et non point par envie;

Je suis trop au-dessous de cette ambition.

Phèdre enchérit souvent par un motif de gloire;

Pour moi, de tels pensers me seraient malséants.

Mais venons à la Fable ou plutôt à l’Histoire

De celui qui tâcha d’unir tous ses enfants.

Un Vieillard prêt d’aller où la mort l’appelait:

Mes chers enfants, dit-il (à ses fils, il parlait),

Voyez si vous romprez ces dards liés ensemble;

Je vous expliquerai le noeud qui les assemble.

L’aîné les ayant pris, et fait tous ses efforts,

Les rendit, en disant: “Je le donne aux plus forts.”

Un second lui succède, et se met en posture;

Mais en vain. Un cadet tente aussi l’aventure.

Tous perdirent leur temps, le faisceau résista;

De ces dards joints ensemble un seul ne s’éclata.

Faibles gens! dit le père, il faut que je vous montre

Ce que ma force peut en semblable rencontre.

On crut qu’il se moquait; on sourit, mais à tort.

Il sépare les dards, et les rompt sans effort.

Vous voyez, reprit-il, l’effet de la concorde.

Soyez joints, mes enfants, que l’amour vous accorde.

Tant que dura son mal, il n’eut autre discours.

Enfin se sentant prêt de terminer ses jours:

Mes chers enfants, dit-il, je vais où sont nos pères.

Adieu, promettez-moi de vivre comme frères;

Que j’obtienne de vous cette grâce en mourant.

Chacun de ses trois fils l’en assure en pleurant.

Il prend à tous les mains ; il meurt; et les trois frères

Trouvent un bien fort grand, mais fort mêlé d’affaires.

Un créancier saisit, un voisin fait procès.

D’abord notre Trio s’en tire avec succès.

Leur amitié fut courte autant qu’elle était rare.

Le sang les avait joints, l’intérêt les sépare.

L’ambition, l’envie, avec les consultants,

Dans la succession entrent en même temps.

On en vient au partage, on conteste, on chicane.

Le Juge sur cent points tour à tour les condamne.

Créanciers et voisins reviennent aussitôt;

Ceux-là sur une erreur, ceux-ci sur un défaut.

Les frères désunis sont tous d’avis contraire:

L’un veut s’accommoder, l’autre n’en veut rien faire.

Tous perdirent leur bien, et voulurent trop tard

Profiter de ces dards unis et pris à part.

Dịch

Một cụ già sắp quy tiên

Gọi ba con đến kề bên bảo rằng:

Các con, đây bó que khăng

Các con thử bẻ được chăng, xem nào

Rồi cha sẽ giảng thấp cao

Mối gì gắn bó que vào một thanh

Cậu Cả gắng sức bình sinh

Hoài công: -Nhường các chú mình khỏe hơn

Cậu Hai tiếp lấy, lên gân

Cũng không bẻ nổi, đến lần cậu Ba

Cả ba cậu mất thời giờ

Bó khăng chẳng chuyển, que gô chặt rồi

Chẳng cái nào bị gẫy rời

Bấy giờ cha mới ngỏ lời khoan thai:

Yếu sao yếu vậy sức trai!

Để cha tỏ rõ cho coi sức già

Mọi người tưởng cụ nói ngoa

Mỉm cười nghi hoặc hóa ra cưới xằng

Cụ già liền tháo bó khăng

Bẻ từng cái một dễ dành như chơi

Đồng lòng mạnh thế con ơi!

Thuận hòa gắn bó một đời thương nhau

Cụ già giở bệnh ít lâu

Vẫn không thêm bớt trước sau một lời

Sau nghe mình sắp lìa đời

Trối trăn cụ lại đôi hồi mấy câu:

Các con ở lại cùng nhau

Để cha vĩnh biệt về chầu tổ tiên

Lời cha căn dặn chớ quên

Anh em như khúc ruột liền sống chung

Cha chờ lời hứa cuối cùng

Buông tay nhắm mắt, lòng không hận gì

Các con khóc lóc xin thề

Đưa tay cụ nắm, cụ về âm cung

Gia tài ba cậu hưởng chung

Của nhiều, việc rối bòng bong cũng nhiều

Kẻ kiện nợ, người đơn kêu

Tay ba đoàn kết, mọi điều cũng êm

Tình hiếm có, ắt chẳng bền

Chẳng bao lâu khúc ruột liền phân chia

Máu đào gắn bó xưa kia

Ngày nay mối lợi làm lìa nhau ra

Tham lam ganh tị bất hòa

Thầy cò thầy kiện một hùa kéo vô

Chia gia tài khá gay go

Cãi nhau phần nhỏ phần to tranh giành

Quan tòa tứ đốm tam khoanh

Lần lần kết án hết anh đến chàng

Rồi thì chủ nợ lân bang

Kẻ đòi đền thiệt, người toan sửa lầm

Anh em nhà mất đồng tâm

Người ưng thỏa thuận, người ngầm phá ngang

Thế là sẩy nghé tan đàn

Gia tài khánh kiệt, thở than chậm rồi

Que khăng bó chặt tách rời

Tiếc thay! chẳng rút được bài học hay

Xem thêm:  Ai nợ tình ai - Bùi Văn Hiệp

Đàn bà với bí mật

Rien ne pèse tant qu’un secret ;

Le porter loin est difficile aux dames ;

Et je sais même sur ce fait

Bon nombre d’hommes qui sont femmes.

Pour éprouver la sienne un mari s’écria,

La nuit étant près d’elle: Ô dieux! qu’est ce cela?

Je n’en puis plus! on me déchire!

Quoi! j’accouche d’un œuf! ─ D’un œuf? ─ Oui, le voilà

Frais et nouveau pondu: gardez bien de le dire ;

On m’appelleroit poule. Enfin n’en parlez pas.

La femme, neuve sur ce cas,

Ainsi que sur mainte autre affaire,

Crut la chose, et promit ses grands dieux de se taire ;

Mais ce serment s’évanouit

Avec les ombres de la nuit.

L’épouse, indiscrète et peu fine,

Sort du lit quand le jour fut à peine levé ;

Et de courir chez sa voisine:

Ma commère, dit-elle, un cas est arrivé ;

N’en dites rien surtout, car vous me feriez battre:

Mon mari vient de pondre un œuf gros comme quatre.

Au nom de Dieu, gardez-vous bien

D’aller publier ce mystère. —

Vous moquez-vous? dit l’autre: Ah! vous ne savez guère

Quelle je suis. Allez, ne craignez rien.

La femme du pondeur s’en retourne chez elle.

L’autre grille déjà de conter la nouvelle:

Elle va la répandre en plus de dix endroits ;

Au lieu d’un œuf elle en dit trois.

Ce n’est pas encor tout ; car une autre commère

En dit quatre, et raconte à l’oreille le fait:

Précaution peu nécessaire,

Car ce n’étoit plus un secret.

Comme le nombre d’œufs, grâce à la renommée,

De bouche en bouche alloit croissant,

Avant la fin de la journée

Ils se montoient à plus d’un cent.

Dịch

Giữ chuyện kín sao mà bứt rứt

Mang được lâu khó nhất các bà

Và tôi biết, chuyện kề cà

Lắm ông tính cũng rất là nữ nhi

Anh chàng nọ muốn truy thử vợ

Lúc đêm khuya, kêu rú bên tai:

“Ôi, tôi đau đẻ trời ơi!…

Ô hay! Đẻ cái quái thai trứng tròn!

Cái trứng hả? – Đây dòm xem thử

Chính nó đây nóng hổi? Và tươi

Giữ mồm giữ miệng mình ơi

Sểnh ra thiên hạ gọi tôi là “gà”

Chuyện này chị vợ ta lớ ngớ

Cũng như nhiều chuyện nọ chuyện kia

Cứ tin là thật và thề

Phật trời chứng giám, chẳng hề hé răng

Nhưng lời thề quên phăng rất chóng

Đã tan vào cùng bóng đêm tăm

Chị chàng vô tứ vô tâm

Trời hửng sáng, mới bước chân khỏi giường

Đã lẻn tót ngay sang hàng xóm

“Bà chị ơi, này gớm! Ôi cha

Chồng tôi ở cữ đêm qua

Đẻ ra trứng lớn hơn ba trứng thường

Giữ kín nhé, vô chừng bí mật

Lộ ra, chàng sẽ quật chết tôi”

Bà hàng xóm đáp: “Chị ơi

Xưa nay chị lạ gì tôi nữa nào

Còn muốn nói đùa sao đó hử

Cứ yên lòng chẳng sợ lộ đâu”

Vợ chàng đẻ về chưa lâu

Bà hàng xóm đã nao nao nóng lòng

Bà đem chuyện lạ lùng đi kháo

Cứ ton ton loan báo mươi nhà

Một quả trứng hoá thành ba

Cuộc truyền tin đã hết đà cho đâu

Một mẹ khác tăng câu chuyện lạ

Thấm thoắt thành bốn quả trứng tươi

Cũng thì thọt, cũng rỉ tai

Cần chi úp mở, “bem” khai toạc rồi

Rồi số trứng cứ dôi lên mãi

Mồm truyền mồm, càng nói càng tăng

Hết ngày lên tới ngoại trăm.

Tính chất hiện thực là một đóng góp đặc sắc của Tú Mỡ vào nền thơ công khai hồi ấy, chất trào phúng nằm ngay trong sự việc. Tài dùng khẩu ngữ dân gian của Tú Mỡ rất điêu luyện. Bên cạnh đó những trang thơ dịch lại góp phần không nhỏ làm nên tên tuổi của ông. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Nhà thơ Tú Mỡ cùng những tác phẩm dịch nổi tiếng phần 1

Theo Baithohay.com