Nhà thơ Trần Tế Xương và tuyển tập những bài thơ hay đặc sắc phần 3

0
Nhà thơ Trần Tế Xương và tuyển tập những bài thơ hay đặc sắc phần 3

Trần Tế Xương là con của một nhà nho và có nhiều đóng góp cho triều đình. Và đó cũng chính là lý do tại sao ông lại mang họ Trần – theo họ của nhà vua. Cuộc đời ngắn ngủi của Trần Tế Xương gắn liền với những biến cố thăng trầm của lịch sử. Và hiện thực xã hội này đã được phản ánh một cách sâu sắc trong thơ của ông. Dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn các bài thơ hay nhất của Trần Tế Xương.

Ngón Chầu

Có phải rằng ông chẳng học đâu?

Một năm ông học một vài câu

Ví dù vua mở khoa thi trống

“Lạc nhạn”, “xuyên tâm” đủ ngón chầu

Ngẫu Chiếm

Người quân tử gặp khi vận kiển

Liệu qua loa cho xong chuyện thì thôi

Việc gần xa phải trái kệ thây đời

Hơi đâu nghĩ vào người thêm tức bực

Ấy mới biết sự đời tuỳ lúc

Thắc mắc chi mà cầy cục có làm chi

Ăn thì ăn, ở thì ở, đứng thì đứng, đi thì đi

Cầm bắt được lòng người khi đã dễ

Với những kẻ đàn hoà vui miệng trẻ

Biết mười mươi ngoảnh mặt sẽ làm thinh

Chờ khi cờ đến tay mình

Ngẫu Hứng

Hán tự chẳng biết Hán,

Tây tự chẳng biết Tây.

Quốc ngữ cũng mù tịt,

Thôi thì về đi cày.

Trồng ngô và trồng đậu,

Cấy chiêm lại cấy mùa.

Ăn không hết thì bán,

Bán đã có Tây mua.

Được tiền thì mua rượu,

Rượu say rồi cưỡi trâu.

Cưỡi trâu thế mà vững,

Có ngã cũng không đau.

Ăn lương hàm chính thất,

Thôi thôi thế cũng xong,

Ví bằng nhà nước dụng.

Phải bổ toà canh nông.

Nghèo

Chẳng khôn cũng biết một hai điều,

Chẳng tội gì hơn cái tội nghèo.

Danh giá nhường này không lẽ bán,

Nhân duyên đến thế hãy còn theo.

Tấm lòng nhi nữ không là mấy,

Bực chí anh hùng lúc túng tiêu.

Có lẽ phong trần đâu thế mãi

Chốn này tình phụ, chốn kia yêu.

Nghèo Mà Vui

Kể suốt thế đố ai bằng anh Mán

Trải mùi đời, khôn chán giả làm ngây

Hổ sinh ra lúc thời này

An thân mệnh thế, giấu tay anh hùng

Không danh cho dễ vẫy vùng

Mình không phú quí, mắt không vương hầu

Khi để chỏm, lúc cạo đầu

Nghêu ngao câu hát nửa tàu nửa ta

Không đội nón, chịu màu da dãi nắng

Chẳng nhuộm răng, để trắng để cười đời

Chốn quyền môn luồn cúi mặc ai ai

Ngoài cương toả thảnh thơi ai đã biết?

Chỉ ấm ớ giả câm giả điếc

Cứ vui tràn khi hát khi ngâm

Trên đời mấy mặt tri âm!

Nhà Nho Giả Danh

Hỏi thăm quê quán ở nơi mô?

Không học mà sao cũng gọi “đồ”?

Ý hẳn người yêu mà gọi thế,

Hay là mẹ đẻ đặt tên cho?

Áo quần đinh đáo trông ra “cậu”.

Ăn nói nhề nhàng khác giọng ngô.

Hỏi mãi mới ra thằng bán sắt,

Mũi nó gồ gồ, trán nó giô.

Nhớ Bạn Phương Trời

Ta nhớ người xa cách núi sông

Người xa, xa lắm, nhớ ta không?

Sao đang vui vẻ ra buồn bã!

Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!

Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng

Khi riêng riêng cả đến tình chung

Tương tư lọ phải là mưa gió

Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng

Nước Buôn

Nước buôn như chị mới ăn người

Chị thấy ai ru? Chị cũng cười!

Chiều khách quá hơn nhà thổ ế,

Đắt hàng như thể mớ tôm tươi.

Tiền hàng kẻ thiếu, mi thường đủ,

Giá gạo đâu năm, đấy vẫn mười.

Thả quít nhiều anh mong mắm ngấu,

Lên rừng mà hỏi chú đười ươi!

Phòng Không

Em giận thân em mãi chửa chồng

Xem thêm:  Thơ Mùa Thu Cô Đơn, Những Bài Thơ Buồn Về Mùa Thu Cô Đơn Hay!

Ngày năm bảy mối tối nằm không

Thiếu gì chốn ấy xêu trầu vỏ

Mà lại nơi kia dấm cốm hồng

“Hẩu lố” khách đà ba bảy chú

“Mét xì” Tây cũng bốn năm ông

Ép dầu ép mỡ duyên ai ép

Có mắn may ra đã bế bồng

Phú Hỏng Khoa Canh Tý

Đau quá đòn hằn;

Rát hơn lửa bỏng.

Hổ bút hổ nghiên;

Tủi lều tủi chõng.

Nghĩ đến chữ “lương nhân đắc ý” thêm nỗi thẹn thùng;

Ngắm đến câu “quyển thổ trùng lai” nói ra ngập ngọng.

Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;

Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.

Có một thầy:

Dốt chẳng dốt nào;

Chữ hay, chữ lỏng.

Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu;

Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.

Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh;

Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.

Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;

Chỉ vì quen lối thị thành, nên một tuổi một già, hoá ra lóng đóng.

Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;

Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng.

Năm vua Thành Thái mười hai;

Lại mở khoa thi Mĩ Trọng.

Kì đệ tam văn đã viết rồi;

Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.

Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;

Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.

Sáng đi lễ phật, còn kì này kì nữa là xong;

Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.

Nào ngờ:

Bảng nhỏ có tên,

Ngoại hàm còn trống.

Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;

Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.

Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?

Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!

Thôi thời thôi:

Sáng vở mập mờ;

Văn chương lóng ngóng.

Khoa trước đã chầy;

Khoa sau ắt chóng.

Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;

Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!

Canh Tý tức năm 1900.

Phú Thầy Đồ

Bài 1:

Thầy đồ thầy đạc

Dạy học dạy hành

Vài quyển sách nát

Dăm thằng trẻ ranh

Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng tía

Võ có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ khố xanh

Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát

Cho nên thầy lẩn quẩn loanh quanh

Trông thầy

Con người phong nhã

Ở chốn thị thành

Râu rậm như chổi

Đầu to tày giành

Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo

Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh

Nhà lính tính quan: ăn rặt những thịt quay, lạp xường, mặc rặt những quần vân, áo xuyến

Đất lề quê thói: chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành

Gần có một mụ, sinh được bốn anh:

Tên Uông, tên Bái, tên Bột, tên Bành

Mẹ muốn con hay, rắp một nỗi biển cờ mũ áo

Chủ rước thầy học, tính đủ tiền chè rượu cơm canh

Chọn ngày lễ bái

Mở cửa tập tành

Thầy ngồi chễm chện

Trò đứng chung quanh

Dạy câu Kiều lẩy

Dạy khúc lý kinh

Dạy những khi xuống ngựa lên xe, đứng ngồi phải phép

Dạy những lúc cao lâu chiếu hát, ăn nói cho sành!

Bài 2:

Có một cô lái

Nuôi một thầy đồ

Quần áo rách rưới

Ăn uống xô bồ

Cơm hai bữa: khoai lang, lúa ngô

Sao dám khinh mình? Thầy đâu thầy vậy!

Chẳng biết trọng đạo, cô lốc cô lô…

Xem thêm:  Bài thơ Hoa Thương Nhớ – Nhà thơ Phú Sĩ

Phố Hàng Song

Ở phố Hàng Song thật lắm quan

Thành thì đen kịt, Đốc thì lang

Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố

Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn

Phường Hát Tuồng

Nào có ra chi một lũ tuồng

Cũng hò cũng hét cũng y uông

Dẫu rằng dối được đàn con trẻ

Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn

Phường Nhơ

Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ

Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ.

Nào sọt nào quang nào bộ gắp,

Đứa bưng đứa hót, đứa đang chờ.

Mình hôi mũi ngạt không kì quản

Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ.

Ngán nỗi hàng phường khi cũng tế

Vẽ ông ôm đít để lên thờ!

Phường Tuồng

Nào có ra chi lũ hát tuồng!

Cũng hò, cũng hét, cũng y uông.

Dẫu rằng dối được đàn con trẻ

Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn!

Quan Tại Gia

Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng

Bốn con làm lính, bố làm quan

Câu thơ, câu phú, sưu cùng thuế

Nghiên mực, nghiên son, tổng với làng

Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa

Trống hầu vừa dứt, bố lên thang

Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ

Đem chuyện trăm năm giở lại bàn

Sông Lấp

Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

Sắm Tết

Tết nhất năm nay khéo thật là!

Một mâm mứt rận mới bày ra

Xanh đồng thắng lại đen rưng rức

Áo đụp bò ra béo thật thà

Kẹo chú Sìu Châu đâu đọ được

Bánh bà Hạnh Tụ cũng thua xa

Sang năm quyết mở ngôi hàng mứt

Lại rưới thêm vào tí nước hoa!

Sư Ông Và Mấy Ả Lên Đồng

Chẳng khốn gì hơn cái nợ chồng!

Thà rằng bạn quách với sư xong!

Một thằng trọc tuếch ngồi khua mõ,

Hai ả tròn xoe đứng múa bông.

Thấp thoáng bên đèn lên bóng cậu

Thướt tha dưới án nguýt sư ông.

Chị em thủ thỉ đêm thanh vắng:

“Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng!”

Sư Ở Tù

Quảng đại từ bi cũng phải tù

Hay là sư cũng vụng đường tu?

Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển

Ý hẳn còn quên một phép phù?

Ta Chẳng Ra Chi

Nếu có khôn ngoan đã vợ nhờ

Dại mà nhờ vợ, vợ làm ngơ

Sáng nem, bữa tối đòi ăn chả

Nay kiệu, ngày mai lại giở cờ

Ngồi đấy chả hơn gì chú Cuội

Nói ra thì thẹn với ông Tơ

Nhắn nhe chốn ấy tìm nơi khác

Ta chẳng ra chi, chớ đợi chờ!

Tái Giá

Cái quả phù trang khéo chuyển vần:

Khi thì quan lớn, lúc thì dân.

Nhà em thách cưới đà hai lượt,

Làng tớ thu cheo có một lần.

Thiên hạ không nên thương tiếc rể,

Cô hầu lắm lúc vẻ vang thân.

Bây giờ ông ấy lên ông cụ,

Ai dám trên ông vạn thế thần.

Tú Tây Hồ, Đồ Xuân Dục

Tú kiệt, đồ keo, cũng một môn,

Phải ai tai nấy, thất kinh hồn.

Người sao rặt những phường thâm móng,

Trời để chơi khăm đứa nhẵn trôn.

Tặng Người Quen

Em gửi cho anh mảnh lụa đào

Phất phơ tươi tốt đẹp làm sao

Của này ý hẳn trong nhà có

Hay cậy người mua ở nước nào?

May áo chỉ nên đôi cái dải

Thắt lưng cũng ngại chẳng đầy tao

Muốn lên hỏi giá mua vài tấm

Không biết rằng em bán thế nào?

Tết Cô Đầu

Chị hỡi chị, năm nay túng lắm

Biết làm sao, Tết đến nơi rồi

Này nụ, này hoa, này hài, này hán

Pháo, tranh Tàu, Hương Cảng mới sang

Chị cùng em sắm sửa lo toan

Muốn mua chịu, sợ nhà hàng lại lạ

Chị em ta cùng nhau giữ giá

Xem thêm:  Sầu đông - Hồng Lĩnh

Đến bây giờ ngã cả chẳng ai nâng

Cũng liều bán váy chơi xuân…

Tết Dán Câu Đối

Nhập thế cục bất khả vô văn tự

Chẳng hay ho cũng húng hắng một vài bài

Huống thân danh đã đỗ tú tài

Ngày Tết đến cũng phải một vài câu đối

Đối rằng:

Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài

Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt

Viết vào giấy dán ngay lên cột

Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?

Rằng hay thì thực là hay

Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài!

Xưa nay em vẫn chịu ngài…

Tết Tặng Cô Đầu

Ngày xuân mừng quý khách

Khi vui lọ đàn phách!

Chuyện nở như gạo vàng

Chuyện dai như chão rách

Đổ cả bốn chân giường

Xiêu cả một bức vách!

Tự Đắc

Ta nghĩ như ta có dại gì

Ai chơi, chơi với, chẳng cần chi

Kìa thơ tri kỷ đàn anh nhất

Nọ phách phong lưu bậc thứ nhì

Ăn mặc vẫn ra người thiệp thế

Giang hồ cho biết bạn tương tri

Gặp thời gặp vận nên bay nhảy

Cho thoả rằng sinh chẳng lỗi thì

Tự Cười Mình

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành

Mắt thời thao láo, mặt thời xanh

Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó

Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh

Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ

Rượu chè trai gái đủ tam khoanh

Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi

Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành

Tự Ngụ

Trời đất sinh ra chán vạn nghề

Làm thầy làm thợ với làm thuê

Đố ai mà được như ông nhỉ

Sáng vác ô đi tối vác về

Tự Tiếc

Ta thấy người ta vẫn bảo rằng:

Bảo rằng thằng Cuội ở cung Trăng

Cõi đời cũng lắm nơi thanh quí

Chị Nguyệt dung chi đứa tục tằn

Mình tựa vào cây, cây chó ỉa

Chân thò xuống giếng, giếng ai ăn

Con người như thế mà như thế

Như thế thời ra nghĩ cũng xằng

Tự Trào (I)

Chẳng phải quan mà chẳng phải dân,

Ngơ ngơ ngẩn ngẩn hoá ra đần.

Hầu con chè rượu ngày sai vặt,

Lương vợ ngô khoai tháng phát dần.

Có lúc vểnh râu vai phụ lão,

Cũng khi lên mặt dáng văn thân.

Sống lâu, lâu để làm gì nhỉ?

Lâu để mà xem cuộc chuyển vần!

Tự Trào (II)

Lúc túng toan lên bán cả trời

Trời cười thằng bé nó hay chơi

Ô hay công nợ âu là thế

Mà vẫn phong lưu suốt cả đời

Tiền bạc phó cho con mụ kiếm

Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi

Còn dăm ba chữ nhồi trong bụng

Khéo khéo không mà nó cũng rơi

Tự Vịnh (Phú Đắc)

Vị Xuyên có bác Tú Xương

Quanh năm ăn quịt, chơi lường mà thôi!”

Vị Xuyên có Tú Xương,

Dở dở lại ương ương:

Cao lâu thường ăn quịt,

Thổ đĩ lại chơi lường!

Than Đạo Học

Đạo học ngày nay đã chán rồi

Mười người đi học, chín người thôi

Cô hàng bán sách lim dim ngủ

Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi

Sĩ khí rụt rè gà phải cáo

Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi

Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ

Trình có ông tiên, thứ chỉ tôi

Trần Tế Xương là một tác giả có cuộc đời ngắn ngủi nhưng đã để lại được nhiều tác phẩm xuất sắc nổi bật. Khi ấy có thể nhà thơ viết chủ yêu để giải sầu, mua vui, hoặc đọc lên cho bạn bè hoặc cho vợ con nghe…. Tuy nhiên những tác phẩm này được rất nhiều người yêu thích. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo để cùng cập nhật các bài thơ hay của chúng tôi nhé!

Theo Baithohay.com