Nhà thơ Nguyễn Duy và tập thơ Cát trắng (1973) nổi tiếng phần cuối

0
Nhà thơ Nguyễn Duy và tập thơ Cát trắng (1973) nổi tiếng phần cuối

Tập thơ Cát trắng Nguyễn Duy là một trong những tập thơ hay đặc sắc của nhà thơ này. Ở đó ta có thể cảm nhận một hồn thơ rất chân thực gần gũi. Mọi cuộc chiến của đất nước đều cũng đã được tái hiện một cách gần gũi qua các câu thơ. Để rồi những con người mà nhà thơ gặp đã được tái hiện thông qua bài thơ này. Hãy cùng tìm hiểu các bài thơ cuối cùng trong tập thơ Cát trắng bạn nhé!

Mảnh gương

Phá ấp – cô gái về làng cũ

Kỷ niệm tuổi thơ – hố bom nuốt chửng rồi

Dấu vết tình yêu – hố bom nuốt chửng rồi

Năm ngoái người con trai trốn giặc càn vét lính

Không biết bây giờ đang ở đâu?

Cô gái vội vàng ra vườn cau

Cái giếng…

Cái giếng vườn cau đã vỡ!

Nhưng

Rất sâu trong lòng gương của nó

Vẫn tỏ một tấm hình – chỉ mình cô thấy thôi

Cũng rất sâu trong lòng gương vỡ đó

Cô gái soi thấy rõ

Gương mặt mình và màu xanh của trời

Chuyện cúng giỗ trong ấp chiến lược

Nải chuối cúng ông bà bằng nhựa rỗng không

Cái quả vàng rỗng không hòng dỗ nín cái dạ dày lép kẹp

Ôi màu mè phồn vinh thoáng nhìn ngỡ đẹp

Nhìn lâu thì ứa nước mắt ra

Em bé lạc mẹ

Em run run giương mắt thỏ nhìn tôi:

– Cháu lạy ông, ông đừng ăn gan cháu!

Em mếu máo làm cả tôi mếu máo

– Chú đây mà, chú là Giải phóng quân

Rồi bế em đi tìm khắp xa gần

Tôi đưa em về với mẹ

Cô gái Hải Lăng

– Xin chớ trách em mặc vải Mỹ mỏng tang

Những áo hở hang, những quần bó nịt

Mười tám tuổi – mười tám năm kìm kẹp

Em như con chim trong lồng dây thép gai

Chúng nó mưu toan Mỹ hoá cả giống nòi

Súng anh nổ phá rào chiến lược

Trả lại cho dân xóm làng, vườn tược

Và trả em về với bộ áo bà ba

Bà mẹ Triệu Phong

– Răng mà khóc, con ơi…

Gánh cực quằn vai đã trút hết rồi

Đất quê kiểng lẽ nào tang thương mãi

Đau khổ quá chừng, lòng chai sạn lại

Mười năm nay mẹ không khóc nữa rồi

Nay con về, đừng khóc, con ơi…

Nhưng

Nước mắt Người lại rơi nóng vai tôi

Bát nước ngô của mẹ Việt ở Cam Lộ

– Cửa nhà bom giội trắng tay

Chỉ còn mấy bắp ngô này con ơi

Con về giữa buổi nắng nôi

Quà đồng chỉ có thế thôi, gọi là…

Nghẹn ngào mẹ nói chẳng ra

Nghẹn ngào chiến sĩ nhận quà ngô non

***

Ít ngô mà lại nhiều con

Mẹ cười móm mém: – hãy còn nước đây!

Bát sành lần lượt chuyền tay

Nước ngô mẹ lại rót đầy cho con:

– Ai chưa uống nước ngô non

Là chưa được thấm cái ngon của đồng

***

Cây ngô đứng nắng vẹo hông

Cho con bát nước mát lòng mẹ ơi!

Quà đồng chỉ có thế thôi…

Bên hàng rào Ái Tử

I

Bom đạn thi nhau vằm mặt đất

Sâu trong lòng đất tôi làm thơ

Có anh chiến sĩ yêu thơ quá

Áp súng bên tôi thắc thỏm chờ

II

Đất úp tấm lưng thừa dày rộng

Che cho thơ và cho chúng tôi

Muốn cùng thơ hát ca ngợi đất

Đào hết tâm tư vẫn thiếu lời

Giọt nước mắt và nụ cười

Chính uỷ của tôi xa quê hương hai mươi sáu năm trời

Nay trở lại làng mình đuổi giặc

Bộ đội hạ đồn. Nhân dân phá ấp

Vợ chồng chính uỷ gặp nhau

Cả hai đều đã bạc đầu

Họ trao cho nhau

Giọt nước mắt và nụ cười hai mươi sáu năm xa dành dụm lại

Giọt nước mắt cũng đã già như tuổi

Riêng nụ cười là vẫn trẻ trung

Đất đỏ – nước xanh

Bom đào đất đỏ, đỏ au

Chói chang trưa nắng một màu lửa nung

Phễu bom sâu hoá giếng hồng

Đất tuôn lặng lẽ một dòng nước xanh

Quê mình đó phải không anh?

Đau thương mấy vẫn ngọt lành bên trong

Hương cau trong đất

Đêm rằm ngủ dưới gốc cau

Gió mang hương xuống hầm sâu với người

Ơ hay trong đất có trời

Thơm man mác ánh trăng soi ngách hầm

Bàn chân người lính

Các anh hành quân xuyên qua giấc ngủ

Để lại trên đường dấu chân đẫm sương

*

Già trẻ hỏi nhau, lòng rưng rưng:

– Các anh đi, nửa đêm? hay gà gáy?

Chỉ thấy dấu chân như chào ở lại

*

Bàn chân chuyển lay đổ bốt sập đồn

Đi êm hơn giấc ngủ những người thương

Qua phà Bến Thuỷ

Sóng rẽ nước ra – con phà sang

Khoan thai trong tiếng hát sông Lam

Người xe ra trận như nước cuốn

Cuồn cuộn mà không chút vội vàng

Xem thêm:  Nhà thơ Bùi Giáng và tập thơ “Mưa nguồn hòa âm” (Phần 2)

Con đường qua Bến Mới

B52 lột da đầu của núi

Như lũ thực dân xưa lột đầu người da đỏ Anh-điêng

Những cánh rừng Hướng Hóa đầy hoa và chim

Đã hóa những cái đầu trọc lốc

Những cái đầu vẫn ngẩng cao vững chắc

Đội một con đường đỏ rực vắt ngang mây

Ngã ba – con mắt – tấm lòng

Tặng La Thị Tám – cô gái đếm bom trên ngã ba Đồng Lộc

Ngã ba dưới chân em

Đất phơi lòng đỏ, lòng đen

Khói bụi trộn đêm vào ngày

Lửa loé trộn ngày vào đêm

Hòn đá lăn ngược lên núi…

Vẫn từng đoàn, từng đoàn xe qua

Và bóng em vươn cao, trông xa

Điểm mặt quân thù đếm từng tội ác

Không một trái bom rơi ra ngoài mắt

Trăm trái bom không rơi ra ngoài mắt

Ngàn trái bom không rơi ra ngoài mắt

Trong mắt em: con đường thẳng đi xa

Vui rộn ràng từng đoàn xe qua

*

– Giữa ngã ba tròng trành sao em đứng vững?

– Bởi mắt em chỉ một tầm nhìn thẳng

Lòng em chỉ một con đường!

Tiếng hát đảo đèn

Đảo nhỏ, Long Châu

Đêm thẳm sâu – đảo càng nhỏ bé

Cô đơn có bủa vây, xâu xé?

Sóng gặm đá xanh, buồn có gặm lòng người?

Biết mấy lo âu, mong ngóng đảo đèn ơi

Đất mẹ lo ra, tàu xa lo tới

Cả những mảng cánh dơi trên ngọn triều chấp chới

Cá trĩu khoang quay mũi ngập ngừng

Lo phũ phàng nắng thiêu, mưa dông

Lo lưng bát cơm lo vơi ang nước

Khi sấn sổ mũi lao chiến tranh xâm lược

Toan chọc mù con mắt biển khơi

Nỗi lo không thể nói bằng lời

Trong bề bộn ngổn ngang trăm mối

Phải kể nỗi niềm: lo đảo nhỏ cô đơn

Đêm nay vừa tắt chớp bom

Mùi đá cháy, mùi thép nung, mùi thuốc nổ

Còn sặc sụa trong từng hơi đảo thở

Tôi ngước trông:

Con mắt biển Đông vẫn điềm nhiên rạng mở

Và tiếng hát từ lòng đảo nhỏ

Mượt mà như mái tóc chải khoan thai

Tôi không biết tiếng ai

Chỉ biết:

Tiếng hát đơn sơ có cái gì bất diệt

Thắp ngọn đèn không tắt giữa mênh mông

Tiếng hát thành cơn mưa mát thấm dịu lòng

Thành bàn tay rất đỗi thân quen cũng rất đỗi lạ lùng

Dọn lại trong tôi những ngổn ngang bề bộn

Hạt lúa cháy nảy mầm

Bom lân tinh đốt kho lúa giống

Mỗi hạt vàng đang thai nghén mùa sau

Đang ủ trong vỏ trấu:

những lò cao

đường phố thênh thang, nông trang bát ngát

hương nếp linh thiêng ngày giỗ chạp

hương dự vấn vương đưa người ra đi

hương tám xoan chờ người nơi xa về…

*

Hạt lúa cời từ đống lửa

Chín nắng mười mưa lòng nào nỡ bỏ

Lúa ơi nước mát lúa ngâm

Hạt lúa bị thương trăn trở nảy mầm

Thương lúa quặn đau như người đẻ khó

Đất êm dịu tựa bàn tay người đỡ

Mầm mạ lọt lòng mập mạp trắng xinh

*

Phải đất nghèo nên hạt lúa giàu tình

Biết thương người như người thương lúa?

Quen nắng bỏng, dẫu dầm vào lửa

Lúa vẫn nguyên lành mầm xanh

Bài thơ tặng con

Một mái hộ sinh

Trăm chùm bom rơi

Con tôi

chào đời

trong lòng đất

Vách hầm rưng rưng – nước mắt

Nước mắt đất

Nhỏ trên khuôn mặt như trái hồng ươm

Nhỏ vào tiếng khóc mềm như chồi non

Cha ghé thăm con:

Chiếc hôn vội vã

In lên sắc hồng đôi má

Dấu đất chiến hào hoen dấu mồ hôi

Tháng ba con biết lẫy

Tháng bảy con biết ngồi

Con bò qua tháng chín tháng mười

Biết với theo cha, biết sà vào lòng mẹ

Nhưng không biết rụt đầu khi tàu bay Mỹ ré

Chẳng giật mình trong trận bom rơi

Bà ru con, ru hỡi, ru hời…

Màu xanh ngây thơ khép hờ trong mi mắt

Cái ngủ trong nôi

Nôi đưa trong đất

Đất đưa trong lớp lớp bàn chân

Bàn chân đi át tiếng bom gầm

Bàn chân đi… rồi con sẽ học

Câu thơ của cha, rồi con sẽ đọc

Tất cả phần con những mùa quả chín đầy

Rễ cây hút màu từ thớ đất hôm nay

Tới tận vành nôi hút từng hơi con thở

Cha biết con đang thèm ngọn gió

Khát tia bình minh từ cửa đất rọi vào

Nụ cười vẫn hồng hào

Trên vòm gối thêu bát ngát trăng sao

Không vui nào bằng niềm vui lặng lẽ

Khi đất và cha cùng nghe con gọi “Mẹ!”

Soi mắt con cười, cha thấy đó, trời xanh

Ý nghĩ trong đêm trực của người đỡ đẻ

Đêm thùng thình như chiếc áo blu

Choàng xuống giấc ngủ say thành phố

Ngoài cửa sổ dập dìu hương hoa sữa

Đất nước mình thêm trẻ trong đêm

Em trực đêm nay – đêm thứ một nghìn

Mà không có đêm nào lặp lại

Bàn tay em bế bồng bao đổi mới

Dù người mẹ nào cũng qua cơn đau

Dù đứa trẻ nào sinh ra cũng giống nhau

Xem thêm:  Quê hương - Tế Hanh

Đêm đạn bom ở dưới hầm sâu

Tiếng trẻ chào đời âm vang dõng dạc

Đêm chống lụt từ trên tầng gác

Tiếng trẻ chào đời cũng lội ra ngoài đê

Đêm như đêm nay, rồi anh sẽ nghe

Tiếng trẻ chào đời thơm hương hoa sữa

Có đứa ra đời cha chờ ngoài cửa

Có đứa ra đời cha đi làm ca

Có đứa ra đời cha ở mãi nơi xa

Bàn tay em đây – năm năm nghề rồi đấy

Vẫn run run, lần nào cũng vậy

Và mỗi lần nhìn mặt trái bàn tay

Nhớ lời xưa của đôi đứa bạn bầy:

– Ôi, có ra gì cái nghề đỡ đẻ!

Em nghĩ những ai nói lời như thế

Cũng không phải từ dưới đất trồi lên

Em tự ví thầm hai bàn tay em

Là nhịp cầu đầu tiên mười mống

Đưa những con người đi vào cuộc sống

Con người qua đây là ai mai sau?

Là ai? Làm gì? Em chưa biết đâu

Điều em biết: đó là con người tốt

Người làm chủ và làm giàu đất nước

Ôi đất nước mình cứ trẻ mãi thôi!

Sơ tán

Áo trắng em nhuộm màu phòng không

Thị trấn cũng giũ đi lớp bụi đường trắng xóa

Tạm rời xa con đường quốc lộ

Thị trấn vào rừng phố mới xanh non

Nhìn mỗi căn nhà sơ tán con con

Ai dễ tưởng cuộc sống này hẹp lại?

Phải, có hẹp đi những gì trống trải

Những mẩu không gian thừa thãi trong phòng

Để sống rộng thêm – tiếng hát cánh rừng

Sống sâu thêm – căn hầm đất đỏ

Và cao thêm – ngọn cây cổ thụ

Thị trấn nghe mình thở hơi đằm hơn

Người xe đi về khi sớm khi hôm

Đêm thị trấn thêm nhiều tăng, nhiều võng

Những quán nước xưa rải dài đường vắng

Giờ tụ vào che chung bóng cây

Hiệu sách dăng đầy sách treo trên dây

Thị trấn mang theo nghìn năm tri thức

Người thị trấn lại bồi hồi nao nức

Chuyền tay nhau những trang viết về mình

Anh ghé thăm em một đêm lặng thinh

Soi mặt nhau qua ngọn đèn hạt đỗ

Rủ rỉ trong căn hầm kèo tụ mụ

Câu chuyện mở ra lấp lánh chân trời

Anh đi rạo rực mãi không thôi

Khi hiểu túp nhà sơ tán

Như màu cỏ úa áo em

Cất giấu bên trong mùa xuân rất đẹp

Con chim kiền kiền thu đôi cánh hẹp

Là để vút mình cho chuyến bay xa

Bài hát người làm gạch

Tặng em Hạng – người làm gạch

Đất im lặng dưới chân ta

Mà nghe có tiếng phố nhà âm vang

Xôn xao mái ngói, nhà tầng

Lắng nghe có tiếng hát thầm… đất thôi

Hòn đất là hòn đất rời

Thành vuông gạch dẻo – tay người nhào nên

Hòn đất là hòn đất mềm

Qua nghìn độ lửa – chắc bền dài lâu

Hòn đất là hòn đất nâu

Ra lò – đất rực rỡ màu đỏ tươi

Nhanh tay nào bạn mình ơi

Gạch đi trăm ngả trăm nơi đang chờ

Bom rơi xuống phố xuống nhà

Phố nhà rơi xuống đất ta những ngày…

Bàn tay vẫy gọi bàn tay

Nhà cao lại dưới đất dày mọc lên

Tay nâng hòn đất lặng im

Để nguyên là đất, cất nên là nhà

Thằng giặc lái bị bắt ăn cơm bằng xác máy bay, uống nước bằng ống rốc-két…

Bay trên trời nó có biết đâu

Đạn và bom nó vãi

Đồ đạc chúng tôi không sót lại thứ gì

Bát sành vỡ nát, bát sắt bay đi

Cái ca, cái nồi, cái thìa

Cũng thủng, cũng bay đi hết

*

Bay trên trời nó đâu có biết

Mảnh đất này găm đầy đuya-ra

Cái bát, cái nồi, cái thìa, cái ca

Đâu lại vào đấy cả

*

Rơi xuống đất này

Nơi quen mắt mà vô cùng xa lạ

Bát cơm ngô vàng như đất hố bom làm cho nó giật mình

Ca nước vối đỏ như khói đạn làm cho nó giật mình

Mặt nó xanh

Mắt nó trồi ra

Nhìn cái bát, cái ca

(Cái bát gò bằng xác “con ma”

Cái ca tiện bằng ống rốc-két)

*

Chúng tôi nói, nó ngơ ngơ không biết

Nó không biết tiếng ta

Mắt nó trồi ra

Nhìn cái bát, cái ca

Chắc chắn là nó biết…

Phỏng vấn

Kính tặng đồng chí Th. T.

Nhà báo nước ngoài:

Ông thấy người Mỹ chưa?

Những người Mỹ mang bom trên trời ấy

Chiến sĩ Việt Nam:

Tôi đã thấy

Những tên Mỹ giặc trời

Rơi xuống đất

Chỉ có hai tư thế:

Một là giơ tay hàng

Hai là cháy thành than

Từ trái bom đến trái dừa

I

Thằng Mỹ dắt bom tới Hàm Rồng

Bom rơi xuống màu xanh sông Mã

Bom Mỹ có hình thù một loài quả

Khói bom đùn lên cũng na ná một loài cây

Trời cứ xanh, cứ xanh trong mắt thằng giặc bay

Xem thêm:  Bài thơ Thế giới tình yêu – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

II

Trời đang xanh, đang xanh bỗng tối sầm trong mắt

Thằng Mỹ rơi về sự thật:

Mảnh bom chém vát thân dừa

(Những thân dừa thanh thanh đu đưa

Như dáng cô lái đò nghiêng nghiêng bên mép sóng)

Những trái dừa xanh non tuổi thơ

Ngoẹo đầu dưới gốc dừa máu đọng

III

Chị dân quân

Và lưỡi dao

Im lặng

Thằng Mỹ dưới chân – có phải con người?

Lá cờ xin ăn lem luốc những ngôi sao đen thui

– Có phải lá cờ không nhỉ?

IV

Chị dân quân cắn môi

Lưỡi dao loáng sắc trời

Bổ chát!

Không

Không bổ cái đầu bờm cúi rạp

Mà bổ trái dừa cho một cơn đói khát

Hai lần chết của một người lính cộng hoà

Dòng máu anh đất hút khô rồi

Anh teo quắt, đất vẫn khô không khốc

Bà con thương tình chôn anh xuống đất

Chưa được nửa ngày, bom Mỹ lại đào lên

Trang sách chưa in

Cô gái ấy mặc áo màu rêu

Ngực áo xanh dòng thêu: Trà Lý

Cô lấp hố bom trên cua chữ A

Mắt đen cười vẫy đoàn xe tôi qua

Má phủ màu đất núi

Dải tóc chảy thành đôi nhành suối trong sương

*

Một trưa dừng chân trong lòng Trường Sơn

Nghe giọng gió thơm thơm trái thị:

“Đẹp biết bao tâm hồn chiến sĩ…”

Một thanh niên xung phong ngồi dựa gốc thông già

Vừa chép trang thơ vừa ngâm nga

Cô bỗng nhìn lên:

Má lổ loang sẹo trắng

Con mắt trái đục lờ – mờ hẳn

Nham nhở mái đầu tóc cháy vàng khô

Tôi lặng đứng sững sờ

Trông ngực áo xanh dòng thêu: Trà Lý!

*

“Sau trận cứu xe – cô gái kể

Lệnh cấp trên đưa em về hậu phương

Em nằn nì xin ở lại cung đường

Từ đó làm giáo viên, anh ạ

Chút vốn lớp mười trên đất lửa

Em mong còn giúp được anh chị em…”

Gia tài của em:

Hai chiếc ba lô nhuộm màu đất đỏ

Toàn là sách, cuốn rách bìa, cháy dở

Cuốn sờn nhàu, cuốn thủng bom bi

Có vài cuốn em mang đi

Còn ngần ấy anh chị em góp lại

Những tối lặng bom, những trưa rỗi rãi

Em đọc chuyền hết lán lại sang hang…

*

Giữa Trường Sơn bom động đại ngàn

Tôi được lật những trang ca dao dạt dào mùa lúa trổ

Được gặp Kim – Kiều chiều xuân tảo mộ

Cả dáng đứng, lời hô anh Trỗi, anh Xuân…

Vào cuộc chiến tranh này trang sách cũng hành quân!

Xe tôi đi, chiều đổ mưa dầm

Em vẫy đưa tôi: nụ cười trong mắt

Từ đó, mắt tôi dường như mang tật

Xem bất kỳ trang văn, trang thơ

Dù của ai, dù viết bao giờ

Đều thấp thoáng dòng xanh: Trà Lý!

Và thầm hỏi:

– Trong em, tâm hồn chiến sĩ

Còn bao nhiêu trang sách quí chưa in?

Về thăm nhà Bác

Sáng mai tôi đi xa

Chiều nay tôi về thăm nhà Bác

Ngõ nhà Bác đỏ hàng bông bụt

Không khác chi hàng bông bụt trước nhà tôi

Vườn Bác xanh luống lạc luống khoai

Giống mọi mảnh vườn trồng khoai trồng lạc

Tám cây cau đằng sau nhà Bác

Cũng gầy gò như mọi cây cau

Mái nhà lợp bằng lá mía trắng phau

Như mọi mái nhà lợp bằng lá mía

Mảnh đất làm nhà bốn phương về ngắm nghía

Là mảnh đất làm nhà có ở khắp bốn phương

(Mọi cái ở đây đều rất bình thường

Như bộ quần áo nâu Bác mặc

Như đôi dép cao su của Bác

Đôi dép mọi người Việt Nam cùng đi)

Nắng chiều nay vẫn cái nắng lầm lì

Như cái nắng mọi khi ủ luống cày phơi ải

Gió chiều nay vẫn tung tăng thoải mái

Như cơn gió mọi khi chạy sải trên đồng

Và lòng tôi chiều nay thanh thản lạ lùng

Như mọi khi tôi sang nhà ông nội

Cùng đoàn khách tham quan từ trăm nơi tới

Tôi soi mình trong mỗi vật đơn sơ

Ngắm ảnh Bác trên liếp gỗ giữa nhà

Tôi thấy Bác gần hơn bao giờ hết

Ngôi nhà lá chiều nay thân thiết

Cùng tôi đi vào ngày mai

Trên đây là những bài thơ của Nguyễn Duy viết trong tập thơ Cát trắng. Ở đây ta có thể thấy được một tình yêu nước nồng nàn trong lòng mỗi người. Từ những địa danh lịch sử, từ các câu chuyện gắn với các con người mà nhà thơ đã gắn bó. Để từ đó ta thêm yêu, thêm quý mảnh đất này. Đừng quên đón đọc các bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cảm nhận những bài thơ hay nhất bạn nhé!

Theo Baithohay.com