Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 11

0
Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 11

Hãy cùng nhau đón xem những thi phẩm xuất sắc nhất của nhà thơ La Fontaine trong bài viết này của chúng tôi! Đối với những bạn đọc yêu thơ, chắc hẳn sẽ không thể bỏ lỡ những áng thơ độc đáo và vang danh nhất đúng không nào? Ngay bây giờ hãy cùng chúng tôi khám phá một phong cách thơ cổ đại đầy mới lạ ngay sau đây nhé!

Sư tử và người đi săn

Un fanfaron, amateur de la chasse,

Venant de perdre un chien de bonne race,

Qu’il soupçonnait dans le corps d’un lion,

Vit un berger: «Enseigne-moi, de grâce,

De mon voleur, lui dit-il, la maison,

Que de ce pas, je me fasse raison.»

Le berger dit: «C’est vers cette montagne.

En lui payant de tribut un mouton

Par chaque mois, j’erre dans la campagne

Comme il me plaît, et je suis en repos.»

Dans le moment qu’ils tenaient ces propos,

Le lion sort, et vient d’un pas agile.

Le fanfaron aussitôt d’esquiver;

«Ô Jupiter, montre-moi quelque asile,

S’écria-t-il, qui me puisse sauver!»

N’est que dans le danger que l’on touche du doigt,

Tel le cherchait, dit-il, qui, changeant de langage,

S’enfuit aussitôt qu’il le voit.

Dịch

Một anh đại khuếch

Tính thích săn chơi

Mất một chó săn vào hạng chó nòi

Nghi bị lọt bụng ngài sư tử

Gặp chú chăn chiên, anh ta hăm hở

Bảo: “Chú làm ơn mách hộ tôi hay

Nhà cái thằng ăn cướp ở đâu đây

Để tôi đến trả thù ngay một vố”

Chú chăn chiên đáp: “Đằng kia, trên núi đó

Mỗi tháng tôi cống nó một cừu to

Mới được yên thân đi lại tự do

Trên đồng cỏ, tha hồ chăn dắt”

Hai người mải chuyện trò chưa dứt

Sư tử lù lù đâu vụt tới nơi

Anh hùng rơm lập tức tháo lui

Kêu: “Trời hỡi! Chỉ dùm tôi chỗ trốn

Hoạ chăng thoát khỏi cơn nguy khốn!”

Chỉ khi chạm trán với nguy nan

Mới rõ anh hùng, mới tỏ gan

Kẻ nọ bô bô tìm mạo hiểm

Thấy nguy chuồn thẳng, hết huênh hoang

Thần thái dương và thần gió bấc

Borée et le soleil virent un voyageur

Qui s’était muni par bonheur

Contre le mauvais temps. On entrait dans l’automne,

Quand la précaution aux voyageurs est bonne:

Il pleut, le soleil luit, et l’écharpe d’Iris

Rend ceux qui sortent avertis

Qu’en ces mois le manteau leur est fort nécessaire;

Les Latins les nommaient douteux, pour cette affaire.

Notre homme s’était donc à la pluie attendu:

Bon manteau bien doublé, bonne étoffe bien forte.

«Celui-ci, dit le vent, prétend avoir pourvu

A tous les accidents; mais il n’a pas prévu

Que je saurai souffler de sorte

Qu’il n’est bouton qui tienne; il faudra, si je veux,

Que le manteau s’en aille au diable.

L’ébattement pourrait nous en être agréable:

Vous plaît-il de l’avoir? – Eh bien, gageons nous deux,

Dit Phébus, sans tant de paroles,

A qui plus tôt aura dégarni les épaules

Du cavalier que nous voyons.

Commencez: je vous laisse obscurcir mes rayons.»

Il n’en fallut pas plus. Notre souffleur à gage

Se gorge de vapeurs, s’enfle comme un ballon,

Fait un vacarme de démon,

Siffle, souffle, tempête, et brise en son passage

Maint toit qui n’en peut mais, fait périr maint bateau,

Le tout au sujet d’un manteau.

Le cavalier eut soin d’empêcher que l’orage

Ne se pût engouffrer dedans;

Cela le préserva. Le vent perdit son temps;

Plus il se tourmentait, plus l’autre tenait ferme;

Il eut beau faire agir le collet et les plis.

Sitôt qu’il fut au bout du terme

Qu’à la gageure on avait mis,

Le soleil dissipe la nue,

Récrée et puis pénètre enfin le cavalier,

Sous son balandras fait qu’il sue,

Le contraint de s’en dépouiller:

Encor n’usa-t-il pas de toute sa puissance

Dịch

Thần thái dương và thần gió bấc

Cùng nhận ra một bác đi đường

Người ngựa mang đủ vật dùng

Lo thời tiết xấu bất thường tấn công

Đã sang thu, dự phòng rất tốt

Cho những ai cất bước đường xa

Mưa rơi, ánh nắng chói loà

Cầu vồng báo trước cho ta biết rằng

Tấm áo choàng là cần hết sức

Phải mang theo trong suốt mùa này

Mỗi lần đi đó đi đây

Dân Trung Ý gọi người vầy đa nghi

Vậy bác đi đường kia đã ngợ

Trời sẽ mưa nên có mang theo

Một tấm áo choàng tuyệt chiêu

Gồm hai lần vải bền siêu nhập vào

“Anh chàng này tưởng đâu đã đủ

Để chống bao sự cố trên đời

Thần gió bấc nói – Được thôi

Nhưng y không lượng sức tôi thế nào

Tôi sẽ thổi rụng ào hết cúc

Tôi muốn thì áo tuột bay luôn

Phen này rung lắc ra tuồng

Chẳng biết Ngài có thích không mà làm?’

Không lắm lời lan man đến vậy

Thần thái dương đáp lại nhẹ nhàng:

“Chúng mình đánh cuộc đàng hoàng

Xem ai lột được áo choàng bác kia

Ông hãy bắt đầu đi, tôi thuận

Cứ làm mờ tia nắng của tôi”

Thần thái dương vừa dứt lời

Thần gió bấc vốn mấy đời thổi thuê

Há họng thu hơi về hít hết

Phình to dần như chiếc khí cầu

Ầm ầm quỷ khốc thần sầu

Rít lên, thổi mạnh, ào ào phong ba

Đập vỡ bao mái nhà mệt oải

Nhấn chìm bao xuồng máy tầu thuyền

Chỉ vì chiếc áo nói trên

Không chịu thua, gió quất lên thân hình

Bác kỵ sĩ luôn tìm mọi cách

Ngăn không cho dông lách áo choàng

Giữ cho cổ, nếp an toàn

Gió càng xoáy khoẻ bác càng kiên tâm

Đến khi hết thời gian đặt cuộc

Thần thái dương liền tước hết mây

Cho bác ấm lên phút giây

Sau cho tia nắng chui vào đầy thân

Lớp vải chần mồ hôi ướt đẫm

Buộc bác ta cởi tấm áo choàng

Thần dùng ít sức rõ ràng

Dịu dàng hơn hẳn cả ngàn hung hăng

Gà trống con, mèo và chuột con

Un souriceau tout jeune, et qui n’avait rien vu,

Fut presque pris au dépourvu.

Voici comme il conta l’aventure à sa mère:

«J’avais franchi les monts qui bornent cet État

Et trottais comme un jeune rat

Qui cherche à se donner carrière,

Lorsque deux animaux m’ont arrêté les yeux:

L’un doux, bénin et gracieux,

Et l’autre turbulent et plein d’inquiétude ;

Il a la voix perçante et rude,

Sur la tête un morceau de chair,

Une sorte de bras dont il s’élève en l’air

Comme pour prendre sa volée,

La queue en panache étalée;»

Or c’était un cochet dont notre souriceau

Fit à sa mère le tableau,

Comme d’un animal venu de l’Amérique.

«Il se battait,dit-il, les flancs avec ses bras,

Faisant tel bruit et tel fracas,

Que moi, qui, grâce aux dieux, de courage me pique,

En ai pris la fuite de peur,

Le maudissant de très bon coeur.

Sans lui j’aurais fait connaissance

Avec cet animal qui m’a semblé si doux:

Il est velouté comme nous,

Marqueté, longue queue, une humble contenance,

Un modeste regard, et pourtant l’oeil luisant.

Je le crois fort sympathisant

Avec Messieurs les rats; car il a des oreilles

En figure aux nôtres pareilles.

Je l’allais aborder, quand d’un son plein d’éclat

L’autre m’a fait prendre la fuite.

Mon fils, dit la souris, ce doucet est un chat,

Qui, sous son minois hypocrite,

Contre toute ta parenté

D’un malin vouloir est porté.

L’autre animal, tout au contraire,

Bien éloigné de nous mal faire,

Servira quelque jour peut-être à nos repas.

Quant au chat, c’est sur nous qu’il fonde sa cuisine.

Garde-toi, tant que tu vivras,

De juger des gens sur la mine.»

Dịch

Chú chuột con đang còn quá nhỏ,

Nên chuyện đời chưa rõ thực hư.

Một hôm xảy chuyện bất ngờ,

Chuột con gặp mẹ chuyện trò cùng nhau.

“Con đã vượt non cao Biên giới,

So đàn anh tài giỏi kém chi.

Thấy hai con vật đang đi,

Con thì hiền hậu, con thì hung hăng.

Con vật này thét vang thô lỗ,

Mang trên đầu thịt đỏ hây hây.

Ngo ngoe cái túm lông đuôi,

Dang tay làm bộ muốn bay lên trời”

Chuột con tả gà choai như thế,

Tưởng cầm ngư từ Mỹ nhập vào.

“Hai tay vỗ ngực ồn ào,

Tiếng kêu phành phạch xiết bao kinh hồn!

May nhờ có Thánh thần che chở,

Nên con đà yên ổn thoát thân.

Con nguyền kẻ ác hại con,

Làm con không được đến gần bạn kia.

Bạn này trông nhiều bề hiền dịu,

Có bộ lông mềm mại như con.

Đuôi dài, da đốm, mình thon,

Mắt ngời tia sáng nhìn con hiền hoà.

Con tin tưởng vào nhà họ chuột,

Bạn tốt lòng, ấy thật dễ thương.

Đôi tai bạn trông vào dễ mến,

Khác nào tai của họ nhà ta.

Con toan đến lân la trò chuyện,

Con vật kia cất tiếng oang oang.

Làm con sợ hãi kinh hoàng,

Cho nên đã phải tìm đường chạy xa.

Con vật “hiền” là con mèo đó,

Chuột mẹ liền nói rõ thực hư.

Lim dim đôi mắt giả vờ,

Lòng đầy nham hiểm luôn chờ hại ta.

Con vật kia, chú Gà Trống đó,

Không thù hằn với họ hàng ta.

Cho ta hai bữa cơm no,

Còn Mèo rình bắt chúng ta làm mồi.

Xét người, thận trọng con ơi

Không nên chỉ xét bề ngoài mà thôi.”

Cáo, khỉ và lũ động vật

Les Animaux, au décès d’un Lion,

En son vivant Prince de la contrée,

Pour faire un Roi s’assemblèrent, dit-on.

De son étui la couronne est tirée.

Dans une chartre un Dragon la gardait.

Il se trouva que sur tous essayée

À pas un d’eux elle ne convenait.

Plusieurs avaient la tête trop menue,

Aucuns trop grosse, aucuns même cornue.

Le Singe aussi fit l’épreuve en riant,

Et par plaisir la Tiare essayant,

Il fit autour force grimaceries,

Tours de souplesse, et mille singeries,

Passa dedans ainsi qu’en un cerceau.

Aux Animaux cela sembla si beau

Qu’il fut élu: chacun lui fit hommage.

Le Renard seul regretta son suffrage,

Sans toutefois montrer son sentiment.

Quand il eut fait son petit compliment,

Il dit au Roi: Je sais, Sire, une cache,

Et ne crois pas qu’autre que moi la sache.

Or tout trésor, par droit de Royauté,

Appartient, Sire, à votre Majesté.

Le nouveau Roi bâille après la finance,

Lui-même y court pour n’être pas trompé.

C’était un piège: il y fut attrapé.

Le Renard dit, au nom de l’assistance:

Prétendrais-tu nous gouverner encor,

Ne sachant pas te conduire toi-même?

Il fut démis ; et l’on tomba d’accord

Qu’à peu de gens convient le Diadème.

Dịch

Xứ này đang thiếu Đức Vua

Vì Vương Sư Tử mới vừa quy tiên

Bầu Vua mới, mọi loài tụ hội

Chú Rồng kia mới vội giơ lên:

Vương miện một chiếc xem chuyền

Ai vừa đầu đội phong liền chức vua

Theo hiến chương, cứ vừa là được

Khắp trong ngoài bước tới thử ngay!

Miện kia, lần lượt chuyền tay

Mỗi người đều thử miện này vòng quanh

Đầu bé tẹo, đàu to đoành

Đầu có sừng nhọn chềnh ềnh thế kia

Khỉ già bắng nhắng đứng rìa

Tay đón mũ, tay kéo rìa cợt cười

Nhăn mặt, uốn éo, múa chơi

Làm nghìn trò khỉ cho người đời xem

Moi loài quanh đó đều khen

Thế là khỉ được bầu liền làm vua

Tất cả lũ tỏ lòng kính phục

Riêng Cáo kia tiếc sự đã rồi

Tuy nhiên vẫn cứ cười cười

Giở mưu, mấp máy đôi lời tung hô

Cáo rằng:

Mép nước bên hồ

Có một kho báu rất to phần ngài

Ngoài tôi biết, chẳng còn ai

Theo luật đất nước mời ngài nhận cho!

Gã vua mới bị tiền xui khiến

Bản thân y muốn tới xem kho

Liệu là dúng thực hay hư!

Tham tiền, mắc bẫy, sa cơ vào tròng

Cáo nhân danh cử tọa, phán rằng:

Làm vua, bất chính thế chăng

Không biết cư xử, thiếu khả năng điều hành?

Bãi chức khỉ, mọi người nhất trí

Chẳng có ai đáng vị quân vương

Đã ra tới chỗ chính trường

Đức tài không có, ai thương được mà!

Xem thêm:  Tuyển Chọn Chùm Stt Tâm Trạng Hay Được Yêu Thích Nhất

Con la huênh hoang về phả hệ

Le Mulet d’un prélat se piquait de noblesse,

Et ne parlait incessamment

Que de sa mère la Jument,

Dont il contait mainte prouesse:

Elle avait fait ceci, puis avait été là.

Son fils prétendait pour cela

Qu’on le dût mettre dans l’Histoire.

Il eût cru s’abaisser servant un Médecin.

Etant devenu vieux, on le mit au moulin.

Son père l’Ane alors lui revint en mémoire.

Quand le malheur ne serait bon

Qu’à mettre un sot à la raison,

Toujours serait-ce à juste cause

Qu’on le dit bon à quelque chose.

Dịch

Chú la đức hồng y

Tự cho là quý phái

Cứ kể lể dài dòng

Rằng mẹ mình, ngựa cái

Đã lập bao kỳ công

Làm việc này việc khác

Ở nơi nọ nơi kia

La ta lòng đoan chắc

Rằng của bà chuyện gì

Cũng phải ghi sử sách

Tin rằng hầu thầy thuốc

Là hạ mình hết sức

Khi la tuổi đã già

Người ta bèn sắp xếp

Cho hầu chiếc cối xay

Trong ký ức lúc này

Thấy cha lừa xuất hiện

Có khi cái không may

Lại trở thành điều hay

Giúp đưa được người ngốc

Trở về con đường ngay

Hươu soi mình dưới nước

Dans le cristal d’une fontaine

Un Cerf se mirant autrefois

Louait la beauté de son bois,

Et ne pouvait qu’avecque peine

Souffrir ses jambes de fuseaux,

Dont il voyait l’objet se perdre dans les eaux.

Quelle proportion de mes pieds à ma tête!

Disait-il en voyant leur ombre avec douleur:

Des taillis les plus hauts mon front atteint le faîte ;

Mes pieds ne me font point d’honneur.

Tout en parlant de la sorte,

Un Limier le fait partir;

Il tâche à se garantir;

Dans les forêts il s’emporte.

Son bois, dommageable ornement,

L’arrêtant à chaque moment,

Nuit à l’office que lui rendent

Ses pieds, de qui ses jours dépendent.

Il se dédit alors, et maudit les présents

Que le Ciel lui fait tous les ans.

Nous faisons cas du beau, nous méprisons l’utile;

Et le beau souvent nous détruit.

Ce Cerf blâme ses pieds qui le rendent agile;

Il estime un bois qui lui nuit.

Dịch

Trong dòng suối tựa thuỷ tinh

Hôm xưa Hươu đứng soi mình nước trong

Khen chạc đẹp; hài lòng, thích lắm

Thấy gióng chân cà khẳng lại buồn

Chân thon lấp ló dưới nguồn

Làm Hươu khó chịu, đòi cơn Hươu sầu

Than rằng: “Ngắm từ đầu đến cẳng

Khác nhau xa, coi chẳng xứng nào

Đầu thì chấm ngọn cây cao

Cẳng thì lếu đếu, bảnh bao nỗi gì!”

Hươu đang nói vân vi như thế

Thấy chó săn, ù té chạy ngay

Cố sao thoát khỏi nguy đây

Cắm đầu phóng vút như bay vào rừng

Tai hại tệ, cặp sừng trang trí

Làm cho Hươu cứ bị vướng hoài

Cái chân tác dụng cứu đời

Cái sừng lại cản, đang thời nguy cơ

Hươu tỉnh ngộ bây giờ đổi giọng

Oán món quà trời tặng hàng năm

Đẹp thường ta trọng, ích ta khinh

Cái đẹp thường khi hại đến mình

Chân giúp Hươu nhanh, Hươu lại oán

Đi mê bộ chạc phản Hươu lành

Thỏ và rùa

Rien ne sert de courir; il faut partir à point:

Le lièvre et la tortue en sont un témoignage.

“Gageons, dit celle-ci, que vous n’atteindrez point

Sitôt que moi ce but. – Sitôt? Êtes-vous sage?

Repartit l’animal léger:

Ma commère, il vous faut purger

Avec quatre grains d’ellébore.

Sage ou non, je parie encore.”

Ainsi fut fait; et de tous deux

On mit près du but les enjeux:

Savoir quoi, ce n’est pas l’affaire,

Ni de quel juge l’on convint.

Notre lièvre n’avait que quatre pas à faire.

J’entends de ceux qu’il fait lorsque, prêt d’être atteint,

Il s’éloigne des chiens, les renvoie aux calendes,

Et leur fait arpenter les landes.

Ayant, dis-je, du temps de reste pour brouter,

Pour dormir, et pour écouter

D’où vient le vent, il laisse la tortue

Aller son train de sénateur.

Elle part, elle s’évertue,

Elle se hâte avec lenteur.

Lui cependant méprise une telle victoire,

Tient la gageure à peu de gloire,

Croit qu’il y va de son honneur

De partir tard. Il broute, il se repose,

Il s’amuse à toute autre chose

Qu’à la gageure. A la fin, quand il vit

Que l’autre touchait presque au bout de la carrière,

Il partit comme un trait; mais les élans qu’il fit

Furent vains: la tortue arriva la première.

“Eh bien! lui cria-t-elle, avais-je pas raison?

De quoi vous sert votre vitesse?

Moi l’emporter! et que serait-ce

Si vous portiez une maison?

Dịch

Chạy ích chi? Cốt đi đúng lúc,

Chuyện Thỏ, Rùa ngẫm thực rõ thay.

Rùa rằng: “Ta đánh cuộc này:

Đích kia chạy đến, anh tày tôi chăng?

Chị điên chắc! Nghĩ xằng mơ hão

Chạy hơn ta? Tẩy não đi thôi!”

Khăng khăng Rùa cứ giữ lời:

“Điên hay không, tôi vẫn chơi cuộc này”

Họ vào cuộc theo y Rùa thách

Giải hai bên, cạnh đích cùng bày,

Hỏi chi vật nọ món này!

Lại cần chi biết ai đây trọng tài!

Thỏ chỉ việc nhảy vài bốn cái

(Cái nhảy khi suýt phải sa cơ,

Nhảy làm bầy chó ngẩn ngơ

Rượt theo mà chẳng bao giờ bén chân)

Vâng! Thỏ đủ giờ ăn giờ ngủ

Giờ vểnh tai nghe gió đông tây

Mặc cho cái ả Rùa này

Như ông quan cụ khoan thai lê mình.

Rùa rời gót tận tình, tận lực

Ì ạch lê từng bước… cố mau

Hợm mình, Thỏ định chạy sau,

Khởi hành cùng lúc, hơn nhau quá thường!

Thỏ nghĩ bụng: “Không bươn bả vội

Càng phất phơ càng nổi tài ba!”

Thỏ gặm cỏ, Thỏ lê la

Thỏ nằm Thỏ nghỉ,… nhởn nhơ đủ trò,

Nhơn nhơn chẳng buồn lo tranh cuộc,

Cuối cùng… khi Thỏ ngước nhìn lên

Đích kia Rùa đã kề bên,

Thỏ ta vội phóng như tên bay vù.

Nhưng bay, nhảy quá ư vô ích

Chị Rùa ta tới đích nhanh thay!

Rùa cười: “Tôi nói chẳng sai,

Có ăn ai được cái tài chạy nhanh?

Tôi thì thắng còn anh lại bại

Nếu anh bê một cái mai vào

Thì còn ì ạch đến đâu?”

Lừa và các ông chủ

L’Âne d’un jardinier se plaignait au Destin

De ce qu’on le faisait lever devant l’aurore.

« Les coqs, lui disait-il, ont beau chanter matin ;

Je suis plus matineux encore.

Et pourquoi? pour porter des herbes au marché.

Belle nécessité d’interrompre mon somme! »

Le Sort, de sa plainte touché,

Lui donne un autre maître ; et l’animal de somme

Passe du jardinier aux mains d’un corroyeur.

La pesanteur des peaux et leur mauvaise odeur

Eurent bientôt choqué l’impertinente bête.

« J’ai regret, disait-il, à mon premier seigneur.

Encore, quand il tournait la tête,

J’attrapais, s’il m’en souvient bien,

Quelque morceau de chou qui ne me coûtait rien:

Mais ici point d’aubaine, ou, si j’en ai quelqu’une,

C’est de coups. » Il obtint changement de fortune ;

Et sur l’état d’un charbonnier

Il fut couché tout le dernier.

Autre plainte. « Quoi donc! dit le Sort en colère,

Ce baudet-ci m’occupe autant

Que cent monarques pourraient faire!

Croit-il être le seul qui ne soit pas content?

N’ai-je en l’esprit que son affaire? »

Le Sort avait raison. Tous gens sont ainsi faits:

Notre condition jamais ne nous contente ;

La pire est toujours la présente.

Nous fatiguons le Ciel à force de placets.

Qu’à chacun Jupiter accorde sa requête,

Nous lui romprons encore la tête.

Dịch

Một con lừa chủ nghề bán cỏ,

Hừng sáng, đến tận ngõ giao hàng,

Mối mang đông đảo rộn ràng,

Ðường xa, dậy sớm, mọi đàng mới xong.

Lúc ra đi gà chưa gáy sáng,

Bận công việc đến mãn xế chiều,

Cỏ nhẹ, nhưng lượng quá nhiều,

Lắm khi mỏi mệt, muốn liều quyên sinh.

Nó tủi thân, thở than số phận,

Cớ sao quá lận đận, lao đao,

Cầu xin các Ðấng Tối Cao,

Hộ trì cứu giúp thoát bao nhọc nhằn.

Lừa cầu xin Vị Thần Ðịnh Mạng

Nhân từ xét tình trạng hiện nay,

Cho phép vận số đổi thay,

Gặp một chủ khác, mong ngày đẹp tươi.

Thần Ðịnh Mạng động lòng trắc ẩn,

Muốn giúp Lừa thay vận đổi thời

Cho phép giúp việc một nơi,

Chủ: người bán cá, thảnh thơi ít nhiều.

Lừa tri ân Vị Thần rối rít,

Ơn tái tạo cảm kích vô ngần,

Từ đây mạng số định phân,

Siêng năng làm việc, ân cần chăm lo.

Chẳng bao lâu bắt đầu than thở,

Cá tanh hôi, chuyên chở nặng nề,

Lại thêm bụng đói ủ ê,

Xưa còn lượm lặt mọi bề cỏ rơi.

Nó bạo dạn khấn thần Ðịnh Mạng,

Cúi xin Ngài gia hạn ơn xưa:

Thay thời, đổi vận, đẩy đưa,

Ban chỗ làm mới cho vừa khả năng.

Thần Ðịnh Mạng hiện ra bất mãn

Trước đòi hỏi quá đáng, ngông cuồng,

Vì lỡ nên Ngài giúp luôn:

Chọn Lừa chủ khác: người buôn than thầm

Sau thời gian sống theo chủ mới

Lừa than thầm thấu tới tai Thần:

“Công việc nặng nhọc muôn phần,

Chở than, kéo gỗ, tảo tần nát thây!

Tương đối sánh trong ba nghề ấy,

Chở cỏ là phe phẩy nhất đời,

Lại thêm có cỏ để xơi,

Thời gian chở cỏ là thời vàng son.”

Thần Ðịnh Mạng hiện ra nổi giận,

Tặng cho Lừa một trận tơi bời:

“Kiếp sống nào phải trò chơi

Ðể người hưởng thụ, nghỉ ngơi, đua đòi?

Ngươi tưởng chừng thế gian nầy chỉ

Có ngươi thôi, để quỷ thần lo?

Quả đất nào phải cái kho

Chứa sẵn của cải để cho người dùng?

Muốn sống phải gian lao, khổ nhọc,

Siêng làm việc, ráng học và hành,

Chấp nhận hoàn cảnh Trời dành,

Với những cay đắng, đấu tranh không ngừng.

Mọi người đều tỏ ra chán nản,

Ước sống lại dĩ vãng đã qua,

Không vui hoàn cảnh tạo ra,

Mải dệt ảo ảnh thiết tha, điên cuồng.

Nên nhớ: hiện tại là sự thật,

Ngoài nó ra, đều trật, đều sai!

Quá khứ lẫn cả tương lai

Toàn là mộng ảo canh dài đêm đông!

Ta không thể nuông chìu ngươi mãi,

Hãy bằng lòng hiện tại của ngươi,

Dù đau khổ, ráng gượng cười

Kiếp sống nào phải để ngươi nô đùa?”

Xem thêm:  Sâu lắng cùng những stt yêu thương ngọt ngào hạnh phúc

Mặt trời và ếch nhái

Aux noces d’un tyran tout le peuple en liesse

Noyait son souci dans les pots.

Ésope seul trouvait que les gens étaient sots

De témoigner tant d’allégresse.

Le Soleil, disait-il, eut dessein autrefois

De songer à l’hyménée.

Aussitôt on ouït, d’une commune voix,

Se plaindre de leur destinée

Les citoyennes des étangs.

«Que ferons-nous, s’il lui vient des enfants?

Dirent-elles au Sort: un seul Soleil à peine

Se peut souffrir. Une demi-douzaine

Mettra la mer à sec et tous ses habitants.

Adieu joncs et marais: notre race est détruite;

Bientôt on la verra réduite

A l’eau du Styx. » Pour un pauvre animal,

Grenouilles, à mon sens, ne raisonnaient pas mal.

Dịch

Tiệc mừng bạo chúa kết hôn

Toàn dân hí hửng rượu tuôn dìm sầu

Duy Ésope bảo ngu sao

Mừng gì hội mở tiệc khao dại đời

Rằng: “Xưa kia, ông Mặt Trời

bỗng dưng nảy ý cưới chơi vợ về

Tức thì dậy khắp bốn bề

Ao chuôm Ếch Nhái tiếng nghe não nùng

Muôn loài một tiếng than chung:

Số ơi! Mệnh hỡi! Hãi hùng xiết bao!

Chúng tôi rồi sẽ ra sao

Nếu mà hắn đẻ lau nhau một bầy?

Một Mặt Trời sống đã gay

Mặt Trời nửa tá, biển đầy cũng khô

Chết khô dân biển, dân hồ

Ôi thôi! Vĩnh biệt bụi bờ ao chuôm!

Tiệt nòi trên đất dương gian

Hoạ may xuống cõi suối vàng mới yên!”

Dù cho Ếch Nhái phận hèn

Xem ra chẳng lý sự quèn chút nao!

Bác nông phu và con rắn

Esope conte qu’un Manant,

Charitable autant que peu sage,

Un jour d’Hiver se promenant

À l’entour de son héritage,

Aperçut un Serpent sur la neige étendu,

Transi, gelé, perclus, immobile rendu,

N’ayant pas à vivre un quart d’heure.

Le Villageois le prend, l’emporte en sa demeure,

Et sans considérer quel sera le loyer

D’une action de ce mérite,

Il l’étend le long du foyer,

Le réchauffe, le ressuscite.

L’Animal engourdi sent à peine le chaud,

Que l’âme lui revient avecque la colère.

Il lève un peu la tête, et puis siffle aussitôt,

Puis fait un long repli, puis tâche à faire un saut

Contre son bienfaiteur, son sauveur et son père.

Ingrat, dit le Manant, voilà donc mon salaire?

Tu mourras. À ces mots, plein de juste courroux,

Il vous prend sa cognée, il vous tranche la Bête,

Il fait trois Serpents de deux coups,

Un tronçon, la queue, et la tête.

L’insecte sautillant cherche à se réunir,

Mais il ne put y parvenir.

Il est bon d’être charitable ;

Mais envers qui? c’est là le point.

Quant aux ingrats, il n’en est point

Qui ne meure enfin misérable.

Dịch

Ê-dốp kể bác nông phu nọ

Thương người nhưng ít có trí khôn

Đúng vào buổi sáng mùa đông

Một mình lối xóm lòng vòng dạo chơi

Thấy rắn lạnh sóng soài trên tuyết

Thân cứng đờ sắp chết đến nơi

Không hề tính chuyện lỗ lời

Nhặt ngay rắn, chạy một hơi quay về

Đặt con vật gần kề bếp lửa

Nó ấm dần rồi cựa quậy mình

Lát sau rắn đã hồi sinh

Cùng cơn thịnh nộ thình lình bốc cao

Thổi phì phì ngóc đầu hung dữ

Cuộn mình toan nhay bổ vào người

Vào người cứu nó đấy thôi

Vào người cha đẻ, vào người ân nhân

Bác nông phu định thần quát khẽ:

“Đồ vong ân bội nghĩa đây mà

Cách này để trả công ta?

Mày đáng tội chết, không tha được mày”

Nói dứt câu lòng đầy căm giận

Bác cầm rìu chặt rắn làm ba

Ba khúc giãy giãy lấy đà

Toan chắp liền lại nhưng mà uổng công

Thương: tốt, nhưng phải thương đúng chỗ!

Kẻ phụ ơn dù có làm gì

Chết không nhắm mắt một khi.

Chàng đánh bẫy, chim ưng và sơn ca

Les injustices des pervers

Servent souvent d’excuse aux nôtres.

Telle est la loi de l’univers;

Si tu veux qu’on t’épargne, épargne aussi les autres.

Un Manant au miroir prenait des Oisillons.

Le fantôme brillant attire une Alouette.

Aussitôt un Autour planant sur les sillons

Descend des airs, fond et se jette

Sur celle qui chantait, quoique près du tombeau.

Elle avait évité la perfide machine,

Lorsque se rencontrant sous la main de l’Oiseau

Elle sent son ongle maline.

Pendant qu’à la plumer l’Autour est occupé,

Lui-même sous les rets demeure enveloppé.

Oiseleur laisse-moi, dit-il en son langage;

Je ne t’ai jamais fait de mal.

L’oiseleur repartit: Ce petit animal

T’en avait-il fait davantage?

Dịch

Hành vi bất công của người tai ác

Thường được dùng làm lý do cáo lỗi cho mình

Luật hoá công ghi rõ rành rành:

Muốn được người cư xử với ta rộng lượng

Thì rộng lương với người phải là lẽ sống nơi ta

Chàng nông phu dùng tấm gương dụ chim con để bắt

Ảo thị tạo ra hấp dẫn chú sơn ca

Chim ưng đang lượn bay trên những luống cày xa

Liền lao xuống nhằm đúng chú chim bé choắt

Vẫn đang hót liên hồi khi cái chết đã kề bên

Sơn ca tránh được bẫy hiểm do người dựng

Nhưng lại rơi vào móng vuốt chim ưng

Con chim lớn lo vặt lông mồi giây lát đã nhận ra

Chính mình đang nằm trong tấm lưới

Bằng ngôn ngữ loài ưng hắn nói:

“Ông bẫy chim ơi, xin tha chết cho tôi

Nào có bao giờ tôi làm hại đến Người”

Nghe vậy chàng đánh bẫy liền đáp:

“Thế chú chim bé bỏng này làm hại ngươi đó chắc?”

Ngựa và lừa

En ce monde il se faut l’un l’autre secourir:

Si ton voisin vient à mourir,

C’est sur toi que le fardeau tombe.

Un âne accompagnait un cheval peu courtois,

Celui-ci ne portant que son simple harnois,

Et le pauvre baudet si chargé, qu’il succombe.

Il pria le cheval de l’aider quelque peu:

Autrement il mourrait devant qu’être à la ville.

” La prière, dit-il, n’en est pas incivile:

Moitié de ce fardeau ne vous sera que jeu. “

Le cheval refusa, fit une pétarade:

Tant qu’il vit sous le faix mourir son camarade,

Et reconnut qu’il avait tort.

Du baudet, en cette aventure,

On lui fit porter la voiture,

Et la peau par-dessus encor.

Dịch

Ở đời phải cứu giúp nhau

Bạn mà chết trước, cực sau đến mình.

Lừa đi với Ngựa ranh ích kỷ

Ngựa ung dung mang chỉ yên cương

Lừa thì chở nặng sụn xương

Lừa van Ngựa rủ lòng thương đỡ đần:

“Phố xa lắm, sức gần như kiệt

Em khẩn cầu tha thiết anh ơi!

Chở dùm cho một nửa thôi,

Với anh, chỉ một trò chơi sá gì”

Ngựa từ, lại nổ ran tràng pháo

Lừa oằn lưng, lảo đảo ngã quay.

Lỗi lầm Ngựa thoắt thấy ngay:

Khối hàng đã nặng còn thêm dây da lừa.

Bỏ mồi bắt bóng

Chacun se trompe ici-bas:

On voit courir après l’ombre

Tant de fous qu’on n’en sait pas

La plupart du temps le nombre.

Au chien dont parle Ésope il faut les renvoyer.

Ce chien, voyant sa proie en l’eau représentée,

La quitta pour l’image, et pensa se noyer.

La rivière devint tout d’un coup agitée;

A toute peine il regagna les bords,

Et n’eut ni l’ombre ni le corps.

Dịch

Trên đời thật lắm kẻ ngu

Bỏ mồi bắt bóng, chẳng thu được gì

Ngày càng nhiều kẻ điên như thế

Theo thời gian, chẳng kể vì sao

Chuyện người, chuyện chó giống nhau

Như ông Ê-dốp gán vào chuyện xưa

Trong cuộc săn, vịt trời bay bổng

Chó đuổi gần tới mép nước sông

Chợt hiện hình đáy nước mênh mông

Một vịt khác to hơn, bay lượn

Chó mừng quá lao ngay, chẳng ngượng

Bỏ vịt bay muốn vớ con bò

Chó đâu biết nạn bất ngờ

Rơi tòm xuống nước lững lờ sông sâu

Xe ba gác bị sa lầy

Le Phaéton d’une voiture à foin

Vit son char embourbé. Le pauvre homme était loin

De tout humain secours: c’était à la campagne

Près d’un certain canton de la Basse-Bretagne,

Appelé Quimper-Corentin.

On sait assez que le Destin

Adresse là les gens quand il veut qu’on enrage.

Dieu nous préserve du voyage!

Pour venir au Chartier embourbé dans ces lieux,

Le voilà qui déteste et jure de son mieux,

Pestant en sa fureur extrême,

Tantôt contre les trous, puis contre ses chevaux,

Contre son char, contre lui-même.

Il invoque à la fin le dieu dont les travaux

Sont si célèbres dans le monde:

« Hercule, lui dit-il, aide-moi ; si ton dos

A porté la machine ronde,

Ton bras peut me tirer d’ici. »

Sa prière étant faite, il entend dans la nue

Une voix qui lui parle ainsi:

« Hercule veut qu’on se remue,

Puis il aide les gens. Regarde d’où provient

L’achoppement qui te retient.

Ôte d’autour de chaque roue

Ce malheureux mortier, cette maudite boue

Qui jusqu’à l’essieu les enduit ;

Prends ton pic, et me romps ce caillou qui te nuit ;

Comble-moi cette ornière. As-tu fait? – Oui, dit l’homme.

– Or bien je vais t’aider, dit la voix ; prends ton fouet.

– Je l’ai pris… Qu’est ceci? mon char marche à souhait.

Hercule en soit loué! » Lors la voix: « Tu vois comme

Tes chevaux aisément se sont tirés de là.

Aide-toi, le Ciel t’aidera. »

Dịch

Một cỗ xe chở đầy rơm rạ,

Do ngựa kéo bươn bả trên đường,

Bỗng đâu gặp phải tai ương,

Sụp lầy lún bánh hết phương vẫy vùng.

Là một nơi hoang vui hẻo lánh,

Xa xóm làng phong cảnh tiêu điều,

Vi vu gió thổi sáng chiều,

Suốt này lạnh lẽo, quạnh hiu thảm buồn.

Khó trông mong gặp người giúp sức,

Kéo chiếc xe khỏi vực hố sâu,

Khiến cho khổ chủ thêm rầu,

Thô lỗ trách cứ cả bầu thế gian.

Trước sỉ vả đường đầy hầm hố,

Khiến chuyến đi kham khổ bất an,

Không quên rủa các ông làng

Thu thuế mà chẳng sửa đàng dân đi.

Anh không ngớt căm hờn con ngựa,

Có mắt mà không lựa lối đi,

Ðợi khi sụp lỗ sầu bi,

Dặm chân reo hí ích chi, bực mình.

Rồi đế phiên cá nhân anh nữa,

Biết làm sao sửa chữa, cứu nguy?

Chẳng lẽ xe mải nằm ỳ?

Ðêm tối gió lạnh lấy gì uống ăn?

Ấy chưa kể tại gia hiền nội

Mải đợi chờ sẽ nổi xung thiên,

Chẳng màng tìm hiểu căn duyên,

Lớn tiếng thịnh nộ gây phiền cho nhau!

Sau một chặp trách người, trách vật,

Anh nghe lòng ngây ngất u buồn,

Âm thầm giọt lệ nhẹ tuôn,

Cõi lòng mở rộng hướng nguồn Trời cao.

Anh nhận thức: Nếu người bất lực

Chắc chắn Trời thừa sức giúp ta.

Sao chẳng cầu khẩn Cha Già

Ra tay tế độ ta bà trầm luân?

Chợt nghĩ qua, lòng mừng khấp khởi,

Vòng tay tròn hồ hởi khần nguyền.

Cầu xin Trời Phật Chư Thiên,

Hộ trì con sớm lìa miền tai ương.

Khấn vái xong, trầm ngâm lẳng lặng,

Từ không trung văng vẳng mấy lời,

Thì thầm các Vị Phật Trời

Dạy anh hãy kíp tức thời làm theo.

“Ta chắc chắn giúp người đúng mức,

Nhưng ngươi phải tận lực giúp ngươi.

Nghe ta, người sẽ reo cười,

Nhớ thực hành đúng, chớ lười, chớ khinh.

Hãy ghi dấu chỗ nào bị lún,

Xới bỏ đi đất bủn bùn non,

Thay vào những mảnh đá con,

Giúp xe lăn bánh, chẳng còn khó khăn.

Kìa phía trước có nhiều hố nhỏ,

Mau tìm cách lấp bỏ chúng đi.

Xung quanh đá vụng thiếu chi,

Cào lấp chúng lại, lối đi vững vàng.

Một hòn đá khá to chận lối,

Xe tiến hành khó nổi lướt ngang

Hãy dùng búa lớn đập tan,

Vỡ thành muôn mảnh xây đàng mà đi.”

Anh chủ xe thi hành nghiêm chỉnh

Lời dạy bảo, huấn lịnh giúp đời,

Xong rồi khấn vái Phật Trời

Cầu xin ban tiếp những lời dạy răn.

Từ thượng tầng, mây ngừng, gió lặng,

Tiếng Bề Trên căn dặn rõ ràng:

“Giờ đây mọi việc bình an,

Con mau cất bước lên đàng ruổi dong.”

Anh lên xe, thét roi thúc dục,

Ngựa giựt mình, tiếp tục kéo xe.

Hai bánh lăn nhẹ te te,

Thung dung bỏ lại cả bè khổ đau.

Anh chàng ta mừng như được ngọc,

Thắm thía thay bài học hôm nay:

“Khi gặp nạn khó, ách tai,

Hãy cứu mình trước, Trời rày giúp sau”

Xem thêm:  Dối trá - Xuân Diệu

Tên lừa đảo

Le monde n’a jamais manqué de charlatans:

Cette science, de tout temps,

Fut en professeurs très fertile.

Tantôt l’un en théâtre affronte l’Achéron,

Et l’autre affiche par la ville

Qu’il est un passe-Cicéron.

Un des derniers se vantait d'être En éloquence si grand maître, Qu'il rendrait disert un badaud, Un manant, un rustre, un lourdaud;

«Oui, Messieurs, un lourdaud, un animal, un âne:

Que l’on m’amène un âne, un âne renforcé,

Je le rendrai maître passé,

Et veux qu’il porte la soutane.»

Le prince sut la chose; il manda le rhéteur.

«J’ai, dit-il, en mon écurie

Un fort beau roussin d’Arcadie;

J’en voudrais faire un orateur.

Sire, vous pouvez tout»,reprit d’abord notre homme.

On lui donna certaine somme:

Il devait au bout de dix ans

Mettre son âne sur les bancs;

Sinon il consentait d’être en place publique

Guindé la hart au col, étranglé court et net,

Ayant au dos sa rhétorique,

Et les oreilles d’un baudet.

Quelqu’un des courtisans lui dit qu’à la potence

Il voulait l’aller voir, et que, pour un pendu,

Il aurait bonne grâce et beaucoup de prestance;

Surtout qu’il se souvînt de faire à l’assistance

Un discours où son art fût au long étendu,

Un discours pathétique, et dont le formulaire

Servît à certains Cicérons

Vulgairement nommés larrons.

L’autre reprit: “Avant l’affaire,

Le roi, l’âne, ou moi, nous mourrons.”

Nous devons à la mort de trois l’un en dix ans.

Dịch

Bọn lừa đảo không chốn nào không có

Xưa nay cái tài đó không ngơi

Sản sinh ra một lớp người

Làm thầy bịp bợm nơi nơi hoành hành

Kẻ tuyên bố là khinh cái chết

Người dán đầy áp phích nhỏ to

Nói mình vượt Cicero

Một trong bọn họ giở trò khoe khoang

Là đại sư trong làng Hùng biện

Làm cho người ưa chuyện hiếu kỳ

Quê mùa, thô lỗ, vụng về

Cũng thành xuất sắc mỗi khi đăng đàn

“Vâng, ai đó có đần đến mấy

Tớ dạy xong cũng phải thành tài

Bất kỳ súc vật nhà ai

Con lừa chẳng hạn, các ngài hãy tin

Cứ dắt lừa đến xin học tớ

Một chú lừa cứng cựa xưa nay

Tớ làm cho nó thành thầy

Về môn hùng biện, khoác ngay áo dòng”

Vua bèn cho ọi vào cung:

“Con lừa của trẫm trong chuồng khá xinh

Trẫm muốn nó trở thành hùng biện”

Muôn tâu, Người thực hiện dễ dàng”

Đức vua cho bạc cho vàng

Rồi ra điều kiện rõ ràng sau đây:

Mười năm lừa nói hay tuyệt hảo

Không thì giá xưat giảo sẵn sàng

Nơi công cộng thít cổ chàng

Sau lưng thi thể còn mang tai lừa

Cùng tác phẩm dạy bừa Hùng biện

Một triều thần bước đến bảo ngay

Rằng ông muốn được có ngày

Thấy chàng lủng lẳng sợi dây hành hình

Người treo cổ thấy mình duyên dáng

Lại oai nghi hơn hẳn thế gian

Nhất là khi nhớ có lần

Rao thuật hùng biện đăng đàn trước kia

Bài diễn văn lê thê thống thiết

Làm mẫu cho không ít những người

Tự xưng Cicero đấy thôi

Một bọn trộm cắp, ấy lời nôm na

“Trước chuyện đó – chàng ta đáp trả –

Tớ hoặc vua, lừa đã chết khô”

Chàng có lý, thật điên rồ

Khi đi cậy nhờ những đến mười năm

Xin cứ thoải mái uống ăn

Mười năm Thần Chết sẽ thăm một người

Trong số chr có ba thôi.

Loài vật phải bệnh dịch hạch

Un mal qui répand la terreur,

Mal que le Ciel en sa fureur

Inventa pour punir les crimes de la terre,

La Peste (puisqu’il faut l’appeler par son nom)

Capable d’enrichir en un jour l’Achéron,

Faisait aux animaux la guerre.

Ils ne mouraient pas tous, mais tous étaient frappés:

On n’en voyait point d’occupés

A chercher le soutien d’une mourante vie;

Nul mets n’excitait leur envie;

Ni Loups ni Renards n’épiaient

La douce et l’innocente proie.

Les Tourterelles se fuyaient:

Plus d’amour, partant plus de joie.

Le Lion tint conseil, et dit: Mes chers amis,

Je crois que le Ciel a permis

Pour nos péchés cette infortune;

Que le plus coupable de nous

Se sacrifie aux traits du céleste courroux,

Peut-être il obtiendra la guérison commune.

L’histoire nous apprend qu’en de tels accidents

On fait de pareils dévouements:

Ne nous flattons donc point; voyons sans indulgence

L’état de notre conscience.

Pour moi, satisfaisant mes appétits gloutons

J’ai dévoré force moutons.

Que m’avaient-ils fait? Nulle offense:

Même il m’est arrivé quelquefois de manger

Le Berger.

Je me dévouerai donc, s’il le faut; mais je pense

Qu’il est bon que chacun s’accuse ainsi que moi:

Car on doit souhaiter selon toute justice

Que le plus coupable périsse.

Sire, dit le Renard, vous êtes trop bon Roi;

Vos scrupules font voir trop de délicatesse;

Et bien, manger moutons, canaille, sotte espèce,

Est-ce un péché? Non, non. Vous leur fîtes Seigneur

En les croquant beaucoup d’honneur.

Et quant au Berger l’on peut dire

Qu’il était digne de tous maux,

Etant de ces gens-là qui sur les animaux

Se font un chimérique empire.

Ainsi dit le Renard, et flatteurs d’applaudir.

On n’osa trop approfondir

Du Tigre, ni de l’Ours, ni des autres puissances,

Les moins pardonnables offenses.

Tous les gens querelleurs, jusqu’aux simples mâtins,

Au dire de chacun, étaient de petits saints.

L’Ane vint à son tour et dit: J’ai souvenance

Qu’en un pré de Moines passant,

La faim, l’occasion, l’herbe tendre, et je pense

Quelque diable aussi me poussant,

Je tondis de ce pré la largeur de ma langue.

Je n’en avais nul droit, puisqu’il faut parler net.

A ces mots on cria haro sur le baudet.

Un Loup quelque peu clerc prouva par sa harangue

Qu’il fallait dévouer ce maudit animal,

Ce pelé, ce galeux, d’où venait tout leur mal.

Sa peccadille fut jugée un cas pendable.

Manger l’herbe d’autrui! quel crime abominable!

Rien que la mort n’était capable

D’expier son forfait: on le lui fit bien voir.

Selon que vous serez puissant ou misérable,

Les jugements de cour vous rendront blanc ou noir.

Dịch

Có một bệnh ai là chẳng khiếp

Hẳn ông trời điên tiết bày ra

Để răn thế giới gian tà

Chính danh dịch hạch (lựa là kiêng tên)

Một ngày chật ních hoàng tuyền

Phải khi trái tiết, bệnh truyền súc sinh

Giống nào giống nấy hãi kinh

Chết không khắp lượt, linh tinh phải đều

Xem ra cảnh tượng tiêu điều

Biếng ăn nhác uống, thân liều cho xong

Cao lương mỹ vị coi không

Chó rừng chó sói đều cùng nằm im

Mặc cừu, mặc lợn, tha tìm

Bồ câu, chim gáy chẳng thèm nhìn nhau

Hết vui ra cảnh buồn rầu

Hùng sư hội nghị để cầu bình yên

Diễn rằng: – Hỡi các anh em!

Trên kia nay đã xui nên cảnh này

Để răn tội chúng ta đây

Vậy nên cứu xét ai hay làm càn

Phải ra mà chịu lấy nàn

Họa may cứu được cho an các loài

Xem trong lịch sử xưa nay

Cầu qua nạn chúng, kẻ hay dâng mình

Tội ta, ta xét cho minh

Vấn tâm ta thử thực tình một phen

Như ta tham thực nết quen

Mồm này đã nhá cừu hèn biết bao?

Loài cừu tội lỗi đâu nào

Nhiều khi ta nhá đến đầu thằng chăn

Vậy nên ta chịu hiến thân

Nhưng ai có tội xa gần thú ra

Cũng nên bắt chước như ta

Để ai trọng phạm ra mà chịu thay

Chó rừng đứng dậy tâu ngay:

Thánh quân tự trách, khắc thay cho mình

Vả cừu ngu độn hôi tanh

Án mông ngự dụng là vinh cho cừu

Sự thường tội lỗi đâu nào!

Còn như thằng bé chăn cừu bất lương

Kể ra độc ác bao dường

Cùng loài cầm thú toan đường tác oai…

Sói tâu vậy, cả các loài

Một phe nịnh hót khen hoài rằng hay

Cọp, gấu dữ ác nào tày

Mà ai có dám đem bày tỏ ra?

Những loài bặng nhặng chua ngoa

Đến như chú cẩu cùng là bụt con

Đến lượt Lừa thú tội luôn:

Trót qua một bãi cỏ non của người

Phải khi bụng đói cỏ tươi

Ma tinh run rủi như mời miệng ăn

Trót đưa một lưỡi gian tham

Chịu rằng phạm lỗi tham ăn của người

Các giống nghe nói vừa rồi

Đồng thanh mắng mỏ Lừa tồi gian ngoan

Sói kia cũng thạo việc quan

Phỉnh rằng: – Nặng nhất là ăn cỏ người

Phải đem Lừa vật chết tươi

Gieo tai cho cả, tội thời tại mi

Tầm thường mà tội lăng trì

Chết nỗi! Trộm cỏ còn gì nặng hơn!

Việc này giết cũng chẳng oan

Liền đem hành hạ một cơn chết Lừa

Thế mới biết kiện thưa tố tụng

Trắng hay đen, thôi cũng thế thần

Chính cuộc sống chan hoà với thiên nhiên, gần gũi với người dân thường đã khiến cho thơ văn của La Fontaine giàu tính dân gian, giàu chất thơ của cuộc sống và sự tinh tế, sinh động khi ông miêu tả thiên nhiên. Đồng thời thơ ông thường bày tỏ lòng nhân ái sâu sắc đến những số phận con người nghèo khó. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm:Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 10

Theo Baithohay.com